12 tháng 1 2019

Trư Bát Giới

<C.012~Tạp Ghi & Phiếm Luận>
Đề tài: NĂM HỢI nói chuyện TRƯ BÁT GIỚI 
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC

Trư Bát Giới 

        Đọc truyện Tây Du Ký, không ai là không biết đến Trư Bát Giới 豬八戒, nhân vật có cái đầu heo và mình mẩy phốp pháp ú lù như ... Trư Bát Giới ! Vốn dĩ là Thiên Bồng Nguyên Soái 天蓬元帥 ở trên trời, cai quản tám vạn thủy binh ở Thiên Hà, nhưng vì uống rượu say đi lạc vào cung Quảng Hàn, buông lời chọc ghẹo Hằng Nga nên mới bị Ngọc Hoàng Thượng Đế đày phải đầu thay xuống thế gian. Vốn tính hời hợt, lại đang buồn lòng, ù ù cạc cạc chui nhằm vào bụng của con heo nái đang chuyển dạ nên khi chào đời mới có cái hình dạng quái dị mình người mà đầu heo như thế ! 

        Năm Hợi 亥 nói chuyện ... Trư Bát Giới là nói chuyện bao đồng quanh quẩn chung quanh cái con heo ham ăn ham ngủ mà háo sắc nầy để nghe chơi cho đở buồn khi trà dư tửu hậu.

        Trư 豬 là Heo, thuộc bộ Thỉ 豕 cũng có nghĩa là Heo, Thỉ là một trong 214 bộ của CHỮ NHO ... DỄ HỌC, thuộc dạng chữ Tượng Hình theo diễn tiến của chữ viết như sau :

Giáp Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư

        Ta thấy từ Giáp Cốt Văn cho đến Đại Tiểu Triện đều là hình tượng của con heo, với cái mỏ nhọn, bụng bự, lưng cong cong, có 4 chân và đuôi hẵn hoi. THỈ 豕 chỉ chung các loại heo rừng hoang dã. Còn Trư 豬 là con heo đã được thuần hóa nuôi trong nhà, cùng với trâu, dê, chó, gà và ngựa họp thành Lục súc 六畜 là 6 con vật mà ta thường nuôi, nên mới có tác phẩm Lục Súc Tranh Công 六畜爭功 mà ta học ở chương trình cổ văn lớp Đệ Lục khi xưa.

        Trư là heo, Thỉ cũng là heo, nhưng Hợi không phải là heo. Vì HỢI 亥 là Ngôi thứ 12, ngôi cuối cùng của Thập nhị Địa Chi : Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, HỢI. Hợi không phải là heo, nhưng biểu tượng của Hợi là Con Heo, nên người ta cứ tưởng Hợi là Heo và hễ nhắc đến Hợi là người ta nghĩ ngay đến con heo. Nhất là bà con ở nông thôn hay nói chơi với nhau : 
Nhà hôm nay ăn cơm với thịt "Hợi"; Bà Ba mới bán con "Hợi" được một tạ ! ... và câu ca dao dân gian về :
Tuổi Hợi là con heo ăn hèm,
Ở dơ ở dáy mình lem lắm sình !
        Hèm là chất bã của gạo sau khi đã cất lên để lấy rượu, trộn thêm cám vào để cho heo ăn thì heo sẽ rất mau lớn. Ở nông thôn Nam kỳ Lục tỉnh, vì khí hậu nóng nực, bà con nuôi heo hay thả rong ngoài vườn, nên heo hay tìm những vũng nước, vũng sình để vùi mình vào đó cho mát. Vì thế mới có câu "Ở dơ ở dáy mình lem lắm sình".

        Theo truyện cổ dân gian kể về Trạng Quỳnh, thì một hôm ông Tú Cát nghe đồn Quỳnh thông minh, nên muốn thử tài, mới ra cho vế đối là: 
Lợn cấn ăn cám tốn, có nghĩa Lợn Cấn là con lợn đã được thiến để nuôi nâng cho mau lớn, nên ăn rất nhiều rất tốn cám. 

        Nhưng vế ra hóc búa ở chỗ CẤN 艮 và TỐN 巽 là 2 quẻ trong Bát Quái là : Càn 乾、Khảm 坎、Cấn 艮、Chấn 震、Tốn 巽、Ly 離、Khôn 坤、Đoài 兌.  
        Quỳnh đã rất nhanh nhẩu đối lại ngay: Chó khôn chớ cắn càn; có nghĩa Con chó khôn ngoan thì không cắn càn cắn bậy. Mà KHÔN 坤 và CÀN 乾 cũng là 2 quẻ trong Bát Quái nữa, thế mới tài !



        2019 là năm Kỷ Hợi 己亥. Thiên Can KỶ 己 thuộc Thổ, màu vàng. Địa Chi HỢI 亥 thuộc Thủy, màu đen. Con heo màu đen là con heo đi vùi sình; còn con heo màu vàng là con heo đã được quay xong. Người Hoa gọi con heo quay là Kim Trư 金豬, dùng để tế lễ thần thánh, cúng trả lễ hoặc cúng bình an cuối năm. Còn dân ta thì trình làng cũng quay heo, đám cưới cũng quay heo, đám ma theo lệ xưa thì chàng rể phải cúng con heo quay, vợ chồng gấu ó ra làng hòa giải cũng phải khiêng heo ... cho nên con heo trong Lục Súc Tranh Công đã kể lể là :

        Kìa những việc hôn nhân giá thú.
        Không heo ra, tính đặng việc chi?
        Dầu cho mời năm bảy chuyến đi,
        Cũng không thấy một người thấp thoáng.
        Việc hòa giải, heo đầu công trạng,
        Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù.
        Nhẫn đến khi ngu phụ, ngu phu,
        Giận nhau đánh giập đầu, chảy máu.
        Làng xã tới lao đao, láu đáu,
        Nào thấy ai gỡ rối cho xong,
        Khiêng heo ra để lại giữa dòng,
        Mọi việc rối liền xong trơn trải.
        Phải chăng, chăng phải,
        Nghĩ lại mà coi,
        Việc quan, hôn, tang, tế, vô hồi
        Thảy thảy cũng lấy heo làm trước !...

        Và quan trọng hơn nữa là nhà vua tế Nam Giao hàng năm để cầu cho phong điều vũ thuận 風調雨順, quốc thái dân an 國泰民安 cũng phải có con heo mới thành "Tam Sên", nên con heo lại lên mặt :
... Ai sánh đặng mình heo béo tốt ?
Vua ngự lễ Nam giao đại đột,
Phải có heo mới gọi tam sanh ...

        Tam Sanh 三牲, dân Nam Kỳ Lục Tỉnh phát theo âm Tiều Châu thành "Tam Sên". TAM SANH 三牲 là ba loại súc sanh, ba loài súc vật tượng trưng cho Tam giới : Thiên giới, Địa giới và Thủy giới. Nên ta thường thấy trên mâm cúng có con gà là phi cầm, tượng trưng cho Thiên giới. Một con heo. Heo là Tẩu thú, tượng trưng cho Địa giới và một con cá tượng trưng cho Thủy giới. Giới bình dân quê tôi cúng "Tam Sên" rất gọn gồm : Một miếng thịt heo, một con gà con và vài con tép cũng đủ để tượng trưng cho Tam Giới như thường. Dĩ nhiên, nhà giàu có hay quan quyền, vua chúa thì thường cúng bằng nguyên con heo quay cho trịnh trọng.

        Tam sanh 三牲 thường dùng để cúng TAM THANH 三清, là 3 ông thánh cao nhất của Đạo Giáo : Ngọc Thanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn 玉清元始天尊、Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn 上清靈寶天尊、và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn ( tức Thái Thượng Lão Quân ) 太清道德天尊 (太上老君). Thái Thượng Lão Quân là Lão Tử, người viết ra quyển Đạo Đức Kinh, chủ trương thuyết Thanh Tịnh Vô Vi 清淨無為 ... Nói theo giới bình dân, tu theo Đạo giáo thì thành Đạo sĩ, Đạo cô, Chân Nhân và cảnh giới cao nhất là thành Thần, thành Tiên, biết phép thuật và trường sinh bất tử. Đạo giáo sang đến Việt Nam ta là các Thầy cúng, Thầy bùa, Thầy Pháp ... chuyên trừ bịnh tà, giải nạn, bắt yêu bắt quỷ ...

        Còn "Tam sên" ở vùng "Cái răng, Bá láng, Vàm xáng, Phong điền" quê tôi, thường dùng để cúng Thần Tài, Thổ Địa, Đất Đai... là chỉ cần có một lát thịt ba-rọi, một cái trứng luộc và một con khô mực là đủ để tượng trưng cho Tam giới rồi !... và Con heo hay thịt heo là món ăn không thể thiếu trong những ngày giỗ quãy lễ tết, cả những ngày thường nữa, nên các từ thịt nạc, thịt đùi, thịt sườn, ba rọi ... không cần phải có chữ "heo" đi kèm, mọi người vẫn biết đó là thịt heo như thường ! Nhà nghèo nhưng phải cúng trả lễ, không có tiền quay nguyên con heo để cúng thì có thể cúng tượng trưng bằng cái Thủ Vĩ ...


        THỦ 首 là cái Đầu; VĨ 尾 là cái Đuôi; nên THỦ VĨ 首尾 là Đầu Đuôi, là cái Đầu và cái Đuôi của con heo, nhưng thường thì có kèm theo 4 cái Móng Heo và một miếng mỡ chài nữa để tượng trưng cho đủ nguyên con heo. Nhưng vì cái đuôi và bốn cái móng nhỏ qúa để bên cạnh cái đầu heo đã được chẻ đôi ở giữa và lận ra cho lớn để cúng, người ngoài nhìn chỉ thấy có cái đầu heo, nên lầm tưởng THỦ VĨ có nghĩa là Cái ĐẦU HEO, mới có các câu nói: (!) 
Cái mặt như cái Thủ Vĩ. (!) Giận ai mà cái mặt như cái Thủ Vĩ vậy ? (!) Thằng đó nó buồn cái gì mà suốt ngày cái mặt của nó giống như là cái Thủ Vĩ Lận vậy ? ( ý nói : Cái mặt chằm dằm).


        Trư 豬 là Heo, còn Bát Giới 八戒 là tám giới cấm theo Giới luật Thanh quy của nhà Phật là : không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói bậy, không uống rượu, không trang điểm, không sống xa hoa và phải ăn chay. Bát Giới là tên mà sư phụ Đường Tăng đã đặt nhằm nhắc nhở cho cái tính tham ăn tham ngủ mà lại lười biếng làm việc của Trư Bát Giới. Đây là nhân vật tiêu biểu cho cái nhân bản của con người nhất của tác phẩm Tây Du Ký. Bản chất con người vốn dĩ thích ăn biếng làm, nếu đã có đủ cái để ăn, thì không ai muốn làm gì cả! Con Heo là con vật được chủ ưu tiên cho ăn no rồi ... ngủ cho mau lớn mau mập để gả bán cho chú lái heo. Nên thành ngữ dành cho lão trư là Cao Chẩm Vô Ưu 高枕無憂. Có nghĩa là : Gối đầu cao cao mà ngủ không lo lắng gì cả, giống như câu "Ăn No Ngủ Kỷ" của ta vậy !

        Ta thường nghe câu Tam Quy Ngũ Giới 三皈五戒, Tam Quy là Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ngũ Giới là : Sát sanh, Trộm đạo, Dâm dục, Vọng ngôn và Uống Rượu. Năm giới cấm nầy chưa đủ làm cho con người trở nên trong sạch, cho nên phải thêm 3 giới cấm nữa là : Không trang sức, Không sống xa hoa phú quý và Không được ăn mặn. Tổng cộng là Bát Giới thì mới dễ dàng giúp cho người tu hành dễ tu tâm dưỡng tánh hơn, nhất là với bản chất đầy đủ cả tham sân si và sắc dục như Trư Bát Giới. Hằng năm viết liễn, thư pháp để gây quỹ cho chùa Tịnh Luật, ở hai bên chữ PHẬT phía sau lưng, tôi đã viết đôi câu đối sau: 
Hán ngữ:     
        淨 渡 十 方 迷 眾, 同 登 彼 岸;
        律 行 八 戒 清 規, 速 捨 迷 途 。
âm Hán Việt 
TỊNH độ thập phương mê chúng, đồng đăng bỉ ngạn;
LUẬT hành bát giới thanh quy, tốc xả mê đồ !
có nghĩa :
        * TỊNH là Sạch, nên Tịnh Độ là Độ sạch sẽ, là ĐỘ HẾT cho chúng sinh mê muội ở khắp mười phương. Đồng đăng bỉ ngạn là : Cùng qua được bến bờ bên kia, vì chúng sinh đang chìm trong bể khổ, nên qua được bến bờ bên kia là đã vượt qua bể khổ để đến được niết bàn rồi.
        * LUẬT là Giới luật, Hành là Thực hành, Thực hành tám cái giới luật và những quy tắc làm cho con người trở nên trong sáng trong sạch hơn của nhà Phật. Tốc xả mê đồ là : Nhanh chóng rời bỏ con đường mê muội mà về với chính giác.

        Trư Bát Giới đã không thể "Luật hành bát giới", cho nên mặc dù có công phò Đường Tăng đến tận Tây Phương chầu Phật Tổ để thỉnh kinh, vẫn không thể thành Phật hay La Hán được. Khi thấy Phật Tổ chỉ phong mình làm "Tịnh Đàn Sứ Giả" để làm sạch các bàn thờ, Bát Giới đã khiếu nại và được Phật Tổ giải thích là :
        " Tại nhà ngươi ăn khỏe tính lười, dạ dày to lắm. Mà khắp bốn đại bộ châu trong thiên hạ, những nơi ngưỡng mộ đạo ta rất nhiều, phàm các việc Phật, ta giao cho nhà ngươi làm tịnh đàn, cũng là một chức phẩm có được ăn uống, sao lại không tốt ?".( theo Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân ).


        Cái tật ăn tạp và háo ăn của Trư Bát Giới còn hình thành một câu thành ngữ mà ai đã đọc qua truyện Tây Du Ký đều biết, đó là câu : "Trư Bát Giới thực nhân sâm qủa,( toàn bất tri kỳ vị) 猪八戒食人参果 (全不知其味)". có nghĩa: Trư Bát Giới ăn qủa nhân sâm, (ý nói Ăn mà không biết được mùi vị gì cả !)".

        Theo Tây Du Ký - Hồi thứ 24, 25, 26 : Trên đường thỉnh kinh, khi đi ngang qua đạo quan Ngũ Trang của Vạn Thọ Sơn, nơi vị Tổ sư của Địa Tiên là Trấn Nguyên Tử tu hành. Nơi đây có một cây Nhân Sâm Qủa, ba ngàn năm mới ra hoa, ba ngàn năm mới kết trái và ba ngàn năm trái mới chín, ăn một qủa có thể sống đến mười ngàn năm, ngửi một cái thôi cũng có thể sống đến ba trăm năm. Vì bận việc đi xa Trấn Nguyên Tử dặn dò hai đệ tử là Thanh Phong và Minh Nguyệt bẻ hai trái Nhân Sâm thết đãi Đường Tăng. Tam Tạng thấy loại trái hình thù như đứa bé, không dám ăn. Bát Giới thấy thèm mà không được ăn, mới xúi sư huynh Tôn Ngộ Không hái trộm. Khi đã hái trộm về 3 qủa, Tôn Ngộ Không kêu cả Sa Tăng đến để chia nhau 3 sư Huynh đệ cùng ăn. Bát Giới vì thèm qúa cầm trái nhân sâm thơm phức bỏ vào miệng, ngoạp một cái là nuốt trọng luôn, nhìn lại thấy Tôn Ngộ Không và Sa Tăng từ từ nhai từ từ thưởng thức, mùi thơm của qủa nhân sâm bay ngào ngạt lại bắt thèm, năn nỉ hai người cho cắn thêm một miếng để thưởng thức từ từ, vì không ai chịu cho nên Bát Giới đâm ra cằn nhằn cưởi nhưởi mãi khiến cho Thanh Phong Minh Nguyệt nghe thấy, mắng cho một trận và mách với sư phụ, tạo thêm một tai nạn rắc rối nữa trên đường đi thỉnh kinh ...

        Vì sự việc trên mà sau nầy hễ ăn một cách vội vả cái gì đó, cứ ăn lấy ăn để mà chưa kịp thưởng thức mùi vị của thức ăn, thì mọi người đều bảo là : Ăn như Trư Bát Giới ăn nhân sâm vậy !

        Trư Bát Giới còn được Phật Bà Quan Âm đặt cho pháp danh là Trư Ngộ Năng 豬悟能, Ngộ Năng là giác ngộ ra được cái bản năng của con người, của chính mình để mà tu tập sao cho thành chánh giác. Chính vì cái bản tánh của Trư bát Giới thể hiện đầy đủ cả tam độc là Tham Sân Si của con người, nên Quan Thế Âm Bồ Tát mới đặt cho pháp hiệu Ngộ Năng để nhắc nhở, nhưng cố tật tham tài tham sắc vẫn không bỏ được, hễ có dịp là lại thể hiện ra ngay, như hồi thứ 54 qua Nữ Nhi Quốc 女兒國 hay hồi thứ 72 khi đến Bàn Tơ Động 盤絲洞 gặp bảy con yêu nhền nhện cái, Bát Giới đều là người dễ bị mê hoặc, dễ bị dẫn dụ và dễ sa ngã nhất. Bản tánh háo sắc của Trư Bát Giới nổi tiếng đến nỗi làm cho "con heo" cũng bị mang tiếng lây. Bà con bình dân hễ nhắc đến những hành động dâm dục thì đều nói là : Giở trò "con heo". Mắng những người dâm dục hay quan hệ tình dục lăng nhăng thì nói là : Thứ cái đồ "heo nọc"! và phim ảnh khiêu dâm thì gọi là : Phim "con heo"!
 
        Nhưng "Phim con Heo" ở Mỹ lại là một bộ phim hoạt hình rất dễ thương của gia đình chú heo Peppa Pig mà trẻ em rất thích, kể cả trẻ em Việt Nam. Kể từ lần đầu tiên ra mắt khán giả truyền hình năm 2004 tại Anh, Peppa Pig - con heo hoạt hình mặc váy đỏ 4 tuổi không chỉ khiến các nhóc tì mà cả phụ Huynh cũng thích thú. Việt Nam ta cũng có phim hoạt hình Ba Chú Heo con ...

        Trư Bát Giới cũng luôn đẩy những người đồng hành với mình vào những tình huống rắc rối bởi sự lười biếng, thói ham ăn và bản tính háo sắc trước những cô gái đẹp của mình. Bát Giới cũng luôn tỏ ra ghen tị với sư Huynh Tôn Ngộ Không của mình và lúc nào cũng muốn tìm cách hạ bệ Ngộ Không xuống. Tại hồi thứ 27, khi Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh, Bát Giới đã gièm xiễm rằng Tôn Ngộ Không đã có ác ý giết chết ba mạng người lương thiện để cho Ðường Tăng nổi giận niêm chú khẩn cô trừng phạt sư huynh, rồi quyết định đuổi luôn về Hoa Quả sơn để đến nổi thầy trò đều lâm nạn lớn. Cái tánh ghét ghen ganh tị đó bị người đời thóa mạ là "Cẩu Trệ Bất Như 狗彘不如". Có nghĩa là : Không bằng Chó Lợn hay "Hành Đồng Cẩu Trệ 行同狗彘" là : Hành động giống như là chó là heo vậy.

        TRỆ 彘 : là con heo nái; miền Bắc gọi là Con Lợn Sề. Nên cũng có câu mắng để nhục mạ người khác khi có hành vi không đứng đắn, đàng hoàng là : Quân Cẩu Trệ, là Đồ Chó Lợn, mà miền Nam chưởi là: "Thứ cái đồ heo, đồ chó !".

        Như vậy là ngoài Trư 豬 và Thỉ 豕 ra, ta còn có Trệ 彘 cũng là Heo nữa. Năm con Heo là năm Hợi 亥, đứng hàng thứ mười hai, là ngôi chót của Thập Nhị Địa Chi xếp sau năm Tuất; Tháng Hợi là tháng Mười âm lịch; Ngày Hợi là ngày đứng trước ngày Tý và Giờ Hợi là từ 9 đến 11 giờ đêm (pm), tức ở cuối canh hai gần sang canh ba. Vì thế mà ta mới có giai thoại văn chương sau đây :

        
Khi hay tin chị dâu sanh được con gái đầu lòng trong đêm rộn rịp vui mừng, Bà Đoàn Thị Điểm đã đùa với anh rằng:
chữ Hán: 
        半 夜 生 孩, 亥 子 二 時 未 定 .
âm Hán Việt:
        Bán dạ sinh hài, Hợi Tý nhị thời vị định.
có nghĩa là: 
        Nửa đêm sanh con, Hợi Tý 2 giờ chưa định, 
ý muốn nói không biết là sanh vào giờ Tý hay giờ Hợi.

        Ông anh là Đoàn Viết Luân liền đối lại:
chữ Hán: 
        两 情 相 配, 巳 酉 双 合 乃 成 .
âm Hán Việt: 
        Lưỡng tình tương phối, Tỵ Dậu song hợp nãi thành.
có nghĩa là 
        "Hai tình phối hợp lại với nhau, Tỵ Dậu 2 tuổi hợp lại mà thành".
với lối chơi chữ, 2 chữ Hợi 亥 và Tý 子 ghép lại thành chữ Hài 孩; chữ Tỵ 巳 và chữ Dậu 酉 ghép lại thành chữ Phối 配. Ta còn gọi đây là lối đối chiết tự. 
 
        Nói thêm: đúng ra chữ PHỐI 配 là do 2 chữ Dậu 酉 và Kỷ 己 họp lại mà thành, nhưng nếu đối là "Kỷ Dậu song hợp nãi thành" thì KỶ 己 là ngôi thứ 6 của Thiên Can, nên Kỷ Dậu là " Một Can một Chi" sẽ không ăn với " Hợi Tý " ở câu trên đều là 2 ngôi của Địa Chi. Cho nên mới dựa vào tự dạng của 2 chữ KỶ 己 và TỴ 巳 giống nhau mà "Mập mờ đánh lận con đen" đổi KỶ 己 thành TỴ 巳, để cho "TỴ DẬU song hợp nãi thành" ( Vì theo Tử Vi : Tỵ Dậu Sửu là Tam Hợp ). Và như thế thì 2 Địa Chi "HỢI TÝ" sẽ đối với 2 Địa Chi "TỴ DẬU" rất ăn và rất chỉnh !

        Trong văn chương Trung Hoa cũng có giai thoại sau đây :

        Tương truyền, vào giữa những năm Hoằng Trị triều Minh, ở đất Quỳnh Sơn tỉnh Quảng Đông có một học giả tên là KHƯU TUẤN 丘濬( 1421-1495 ), tự là Trong Thâm 仲深, đậu Tiến Sĩ năm Cảnh Thái thứ 5, làm quan đến chức Lễ Bộ Thượng Thơ, Văn Uyên Các Đại Học Sĩ. Thế mà xém chút nữa đã bị thua một cô gái nhà quê con chủ quán. Truyện kể ...

        Một đêm, khi Khưu Tuấn đang ở trong một quán trọ. Chủ quán có một cô con gái rất thông minh, lại giỏi văn chương, nghe tin có Văn Các Đại Học Sĩ đến, bèn xin ra mắt. Sau khi đàm luận có ra cho ông một câu đố như thế nầy :

二人並坐, Nhị nhân tịnh tọa,
坐到二更三鼓, Tọa đáo nhị canh tam cổ,
一畏貓兒一畏虎。 Nhất úy miêu nhi nhất úy hổ.
        Có nghĩa :  
Hai người cùng ngồi ngang với nhau,
Ngồi cho đến canh hai ba hồi trống đổ,
Một người sợ mèo, một người sợ hổ !

        Khưu Tuấn nghĩ ngợi hèn lâu, ông đang cân nhắc giữa câu " hai người ngồi ngang nhau " có thể là 2 chữ " Nhân 人 " mà lại một người sợ mèo một người sợ cọp, thì không phải là " 2 người " nữa, mà là 2 con vật gì đó. Con gì sợ mèo ?! Là ... CÁ là NGƯ 魚. Con gì sợ cọp ? Là ... DÊ là DƯƠNG 羊. NGƯ 魚 và DƯƠNG 羊 ghép lại cho "ngồi ngang" với nhau thành chữ TIÊN 鮮 : Có nghĩa là Tươi Ngon. Chắc ăn như bắp, suy nghĩ xong, ông bèn vuốt râu mĩm cười nói ra đáp án.

        Nào ngờ, cô gái cũng mĩm cười lắc đầu bảo: "Sai rồi!". Ông ngạc nhiên hỏi: "Sao lại sai?". Cô gái đáp: "Thế thì ông giải thích thế nào về câu: Tọa đáo nhị canh tam cổ? (Ngồi cho đến canh hai ba hồi trống đổ). Khưu Tuấn xịu mặt trầm tư, chợt ông tỉnh ngộ ra, vổ đùi đánh đét một tiếng bảo rằng: "Phải rồi! Canh hai là giờ HỢI 亥, còn Ba hồi trống đổ là Canh ba giờ TÝ 子. Ghép chữ TÝ 子 với chữ HỢI 亥 lại với nhau, ta có chữ HÀI 孩 là Hài Nhi phải không? Cô gái gật đầu cười đáp: " Đúng vậy! TÝ là Chuột sợ mèo; HỢI là Heo sợ Cọp !".

        Khưu Tuấn khen lấy khen để, cho đây là câu đố thật tuyệt vời !


        Tuổi Hợi là tuổi con Heo, trong đề 36, sau nầy là đề 40, thì con heo mang số 7, có tên chữ là Chánh Thuận 正順, nằm trong Ngũ Hổ Tướng gồm có :
Số 5 là Chí Cao con Trùng.
Số 6 là Khôn Sơn con Cọp.
Số 7 là CHÁNH THUẬN con Heo.
Số 8 là Nguyệt Bửu con Thỏ.
Số 9 là Hán Vân con Trâu.

        Con heo Chánh Thuận làm cho ta nhớ đến lò heo Chánh Hưng, bên kia Cầu Chữ Y Quận Tám ngày xưa, nơi chuyên mỗ và cung cấp thịt heo cho toàn đô thành Sài Gòn Chợ Lớn. Giới bình dân ghiền số đề hiện nay đánh đề theo vé số Kiến Thiết xổ hằng ngày từ 00 đến 99 lại phải thua thêm 2 số nữa; ngoài số 7 là con heo con ra còn có con heo sồn sồn số 47, và một con heo già, lớn cở ... Trư Bát Giới nữa là con số 87. Giới thua đề thường than với nhau :
Chánh Thuận chẳng thuận chút nào,
Thua hoài thua huỷ quơ quào khắp nơi !

        Xã hội còn dân nghèo, còn bất công, tham nhũng, thì nạn đánh đề và vé số còn hoành hành và còn làm khổ dân đen mãi mãi. Vì đâu có làm ăn gì bằng được với trúng số, trúng đề :
Phải thời một vốn bỗng liền bảy mươi !
có nhiều chủ thầu còn cho 1 đồng trúng tới 72, thậm chí 75 nữa là đằng khác. Cho nên dân ghiền số đề cứ cắm đầu vô đó mà chết ! Chánh Thuận 正順 có nghĩa là : Chính trực đàng hoàng thì sẽ được thuận lợi suông sẻ, nhưng Chánh Thuận là con heo của số đề thì không suông sẻ chút nào cả. Vướng vào rồi thì là từ chết đến bị thương mà thôi !

        Xét ra thì cũng tội nghiệp cho con heo hiền lành dễ bị thuần hóa bởi con người, nhưng lại bị số đề và hình tượng đầy tính tham sân si của Trư Bát Giới làm cho xấu đi; con heo ục ịch dễ thương, ủn ỉn như lợn ăn khoai thành con heo dâm dật háo sắc, thấy đàn bà đẹp thì thèm rõ dãi như Trư Bát Giới thì qủa thật là tội nghiệp cho con ... " heo đồng cỏ nội " quá đi thôi !

        Thịt heo lại là món ăn hiền lành nhất, phổ thông nhất trong dân gian, người ta cử ăn thịt trâu thịt bò thịt chó ... chớ không ai cử ăn thịt heo cả ! ( trừ những người theo đạo Hồi ). Trong dân gian ta đầy rẫy những món ngon được chế biến từ thịt heo, như : Giò, chả, nem, lạp xưởng, thịt khô, thịt đông ... Nhà có tiệc đãi khách, hoặc ngày lễ ngày Tết ... là không thể thiếu thịt heo được, ta hãy đọc một bài thơ rất nổi tiếng của Lục Phóng Ông ( tức Lục Du ) đời Nam Tống tả cảnh xóm tây mời khách ăn Tết trong một cuối năm được mùa như sau:

遊 山 西 村                      Du Sơn Tây Thôn
莫 笑 農 家 臘 酒 渾, Mạc tiếu nông gia lạp tửu hồn,
豐 年 留 客 足 雞 豚。 Phong niên lưu khách túc kê đồn
山 重 水 復 疑 無 路, Sơn trùng thuỷ phục nghi vô lộ
柳 暗 花 明 又 一 村。 Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn
簫 鼓 追 隨 春 社 近, Tiêu cổ truy tuỳ xuân xã cận
衣 冠 簡 樸 古 風 存。 Y quan giản phác cổ phong tồn
從 今 若 許 閑 乘 月, Tòng kim nhược hứa nhàn thừa nguyệt
拄 杖 無 時 夜 叩 門。 Trụ trượng vô thì dạ khấu môn.
陸 游                                  Lục Du

        Đừng cười nhà nông chúng tôi uống rượu Tết không trong, vì rượu chỉ ủ thôi chớ không có cất nấu, và vì được mùa nên mời khách ở lại mà thưởng thức các món ăn do gà heo làm ra ...

DẠO NÚI XÓM TÂY
Thôn dã chớ cười rượu nhạt phèo,
Cuối năm đãi khách sẵn gà heo.
Núi liền sông nước ngờ vô lối,
Liễu rũ đường hoa đến xóm nghèo.
Tiêu trống rộn ràng Xuân Xã đến,
Áo xiêm giản dị cổ phong theo.
Từ nay nếu rảnh đêm trăng sáng,
Gỏ cửa cùng vui gậy khẳng kheo.

       
Bài thơ trên cho ta biết thêm một từ chỉ Con Heo nữa, đó là từ ĐỒN 豚. Kê Đồn 雞 豚 : là Gà và Heo. Trong Tăng Quảng Hiền Văn có dạy : 
貪 他 一 斗 米,失 卻 半 年 糧;(ham tha nhất đấu mễ, thất khước bán niên lương);
 爭 他 一 腳 豚,反 失 一 肘 羊。(tranh tha Nhất Cước Đồn, phản thất nhất trửu dương).
        Có nghĩa: tham của người ta một đấu gạo, mình lại bị mất hết nửa năm lương thực;( ăn gian chỉ có một đấu, bị phạt đến nửa năm lương );
Tranh với người ta Một Cái Giò Heo, ngược lại mình bị mất đi một cái đùi dê ! ( tranh nhau cái nhỏ để mất đi cái lớn hơn, ngon hơn !).

        Ở đời, hễ tham thì thâm là thế !


        Trở lại với nhân vật Trư Bát Giới trong Tây Du Ký, ngoài những thói hư tật xấu đã kể trên, Trư Bát Giới tuy đã xuất gia, nhưng vẫn còn rất nặng nợ với ... gia đình vợ con. Thật vậy, cứ mỗi lần Đường Tăng gặp nạn, bị yêu quái bắt đi hay bị Nữ Vương của Nữ Nhi Quốc giữ lại thì y như là Trư Bát Giới đòi " phân chia tài sản " rồi ai về quê nấy. Tôn Ngộ Không và Sa Tăng thì đâu có "quê" đâu mà về, nhưng Trư Bát Giới thì lại khác, trong lòng y luôn canh cánh nhớ tới Cao Tiểu Thơ của Cao Lão Trang, người vợ mà y thương yêu rất mực và làm việc cật lực hết lòng để làm giàu cho Cao lão Viên Ngoại. Khi đi theo Đường Tăng y cũng có dặn lại rằng : ... Khi nào không thỉnh được kinh thì con sẽ về lại nhà để làm ăn sinh sống như xưa. Cho nên, hễ có dịp là y lại thừa cơ bàn ra và luôn luôn muốn cho tan đàn xẻ nghé !

        Nhưng bên cạnh nhiều nhược điểm như trên, Trư Bát Giới còn là một nhân vật với rất nhiều đức tính tích cực. Đó là, không bao giờ chịu khuất phục trước bất cứ một yêu quái nào dù là loại hung dữ nhất hay gặp phải những hoàn cảnh khủng khiếp nhất, bị yêu quái bắt để ăn thịt chẳng hạn, mặc dù ngoài miệng y luôn cằn nhằn cưởi nhưởi, nhưng lại là một trợ thủ đắc lực của Tôn Ngộ Không trên con đường thiên lý đi Tây Thiên thỉnh kinh. Nhân vật Trư Bát Giới trong suốt chặng đường đi đã luôn gây cho người xem các trận cười thoải mái cũng như sự hồi hộp, lòng cảm mến trước những đức tính đáng yêu. Đó là hình tượng một anh nông dân thật thà với những cách nghĩ, cách làm rất... chất phác, dù dưới cái lốp hòa thượng, và y cũng một lòng một dạ đi đến tận Tây phương Lôi Âm Tự để diện kiến đức Thế Tôn : Phật Tổ Như Lai.

        Tóm lại, trong Tây Du Ký nhân vật Trư Bát Giới là nhân vật có lý lịch và tâm lý phức tạp nhất và do vậy, y cũng là nhân vật có nhiều tính chất " nhân bản " nhất, kể cả tính tốt lẫn tật xấu và là nhân vật sinh động nhất trong tác phẩm.

        Năm Hợi, mong rằng tất cả mọi người đều cùng vượt qua được tham sân si như Trư Bát Giới để xây dựng nên một gia đình hạnh phúc, một sự nghiệp thành công, một cuộc sống đầy từ bi bác ái tình người và ấm no đầy đủ như là Tịnh Đàn Sứ Giả vậy !

Đỗ Chiêu Đức

Bóng ảo chiều đông

<D.423><Tiết Lạnh Đông> 



BÓNG ẢO CHIỀU ĐÔNG

Quạnh quẽ màn sương phủ váng mờ
Khung trời vắng vẻ lạnh hồn thơ
Chung trà đậm sưởi hương màu nhớ
Khúc phổ vời ru điệu vũ chờ
Vẫn gợn đường khuya lồng nét ảnh
Luôn vờn bóng ảo hiện mành tơ
Từ sâu thẳm ngóng mùa xoay vội
Khép vững niềm tin giọng giả hờ.

Mai Thắng
190112

★ Bài xướng của Dung Nguyên

CHIỀU ĐÔNG

Chiều mưa phố nhỏ đẫm sương mờ
Huyễn ảo khung trời đẹp ý thơ
Tửu quán bầu cay từng giọt dỗ
Trà sen chén dịu những hương chờ
Êm đềmvũ khúc trầm khuông nhạc
Nhẹ nhõm cung đàn bổng phím tơ
Thả mộng mơ màng theo lối cũ
Vàng lay rặng liễu tóc buông hờ...

10/1/2019
DUNG NGUYÊN

Trời đêm phố lạnh

<D.422><Thời Tiết-Khí Hậu>



TRỜI ĐÊM PHỐ LẠNH

Sương trùm phố nhỏ lạnh trời đêm
Vắng vẻ đường khuya tĩnh lặng thềm
Ngõ hẻm vang lùa cơn gió nhẹ
Thư phòng đắp vội mảnh mền êm
Nằm thao thức điểm canh về sáng
Niệm dỗ dành ru giấc ngủ mềm
Cảnh huống im lìm rơi quạnh quẽ
Ai người thố lộ nhủ lòng thêm.

Mai Thắng
190111

★ Bài xướng của Dung Nguyên

TIẾNG ĐÊM

Huyễn ảo muôn vùng lặng bóng đêm
Quỳnh khoe cánh mỏng dịu bên thềm
Đường khuya gió phả đìu hiu lạnh
Lối nhỏ hương tràn nhẹ nhõm êm
Tỏa khắp vầng trăng tràn nhũ bạc
Xòe nghiêng vạt cỏ hứng sương mềm
Bình yên cảnh vật nồng say giấc
Khiến cả khung trời tĩnh mịch thêm!

10/1/2019
DUNG NGUYÊN

10 tháng 1 2019

Đêm dài tĩnh lặng

<D.421><Thời Tiết-Khí Hậu>



ĐÊM DÀI TĨNH LẶNG

Giữa khoảng non ngàn mịt váng sương
Tàn đông vắng lạnh những con đường
Vầng trăng thức dõi trời phiêu bạt
Mảnh ruộng loang chìm quãng nhớ thương
Nhóm lửa phong trần ngâm chuỗi quạnh
Hò câu vọng cổ thoáng môi hường
Buồn vui nhẫn đợi thời xoay chuyển
Giữa khoảng non ngàn mịt váng sương.

Mai Thắng
190109

★ Bài xướng của Trương Đức Hạnh

TĨNH LẶNG

“Thủ vĩ ngâm”

Non ngàn tĩnh lặng thoảng màn sương
Một ánh sao khuya đã lạc đường
Cảnh vật im lìm trăng vẫn thức
Mây trời lặng lẽ gió hoài thương
Hồn nhiên chú cuội hòa sông mộng
Bỗng chốc nàng thơ nở nụ hường
Đất Mẹ vui buồn ai đã tỏ..!
Non ngàn tĩnh lặng thoảng màn sương.

Đức Hạnh
09 01 2019

Em Và Xuân

<D.420~Thơ Xuân>



EM VÀ XUÂN

Em bón mai vàng nở giữa xuân
Em cùng rộn rã đón nàng xuân
Em cài ngọc thể xuân hồng sắc
Em tẩm trang đài nét diễm xuân
Em mở vườn xuân ong đắm mật
Em bày cảnh mộng bướm vờn xuân
Em tô vận thắm chiều xuân đẹp
Em trải tim nồng thưởng thức xuân!

Mai Thắng
190109

★ Bài xướng của Như Thị - Lê Đăng Mành
(Thủ nhất thanh độc vận)

THƠ XUÂN

Thơ đằm thắm gợi ý mùa xuân
Thơ dịu dàng gom cả dáng xuân
Thơ dưỡng tinh thần bên đất nước
Thơ gìn phong thái giữa trời xuân
Thơ mừng Huynh Tỷ dồi dào lộc
Thơ chúc thi đàn đậm nét xuân
Thơ đón giao thừa không tiếng pháo
Thơ chào Kỷ Hợi bộn lời xuân

Như thị

Cầu Lam

<C.011><Điển tích văn học>
Đề tài: CẦU LAM
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC


        CẦU LAM là cây cầu màu xanh lam, mà cây cầu mà màu xanh lam là cây cầu đẹp và nên thơ vô cùng, vì nơi đó là chỗ ở của người đẹp, của các nàng tiên, của người trong mộng… nên khi muốn nghe Thúy Kiều đờn, Kim Trọng đã phải rào đón trước :
        Sinh rằng : Gió mát trăng trong,
        Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
        Chày sương chưa nện CẦU LAM,
        Sợ lần khần qúa ra sởm sỡ chăng ?
 hay như trong Lâm Tuyền Kỳ Ngộ :
         CẦU LAM hội ấy đành khôn hẹn,
         Con tạo trời kia bỗng khéo xây.

        Cầu Lam là LAM KIỀU, là nơi ở của người đẹp mà ta hằng ao ước. Nên khi dò la tìm chỗ ở của Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du đã viết về chàng Kim Trọng như sau:
        Tình riêng nhớ ít tưởng nhiều,
        Xăm xăm đè nẻo LAM KIỀU lần sang.

        Ngay cả Mã Giám Sinh khi đến trả giá để mua Thúy Kiều cũng phải làm ra vẻ cao qúy nho nhã lịch sự :
        Rằng mua ngọc đến LAM KIỀU,
         Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.

        Lam Kiều hay Cầu Lam còn có liên quan đến CHÀY SƯƠNG là cái Chày dùng để giả thuốc trường sinh làm sính lễ cưới vợ, như Kim Trọng đã nói ở trên: 
CHÀY SƯƠNG chưa nện CẦU LAM, có nghĩa là chưa trình sính lễ để hỏi cưới, để hợp thức hóa mối duyên của đôi lứa yêu nhau.

        Lam Kiều cũng làm cho người ta nghĩ đến QUỲNH TƯƠNG, là thứ rượu được ướp bằng trái cây, như rượu cocktail của ta bây giờ, nhưng ngày xưa Quỳnh Tương là rượu qúy chỉ dùng để đãi khách qúy mà thôi. Nên để trân trọng cho lần đầu tiên gặp gỡ, Kim Trọng đã dùng chén HÀ là chén có hoa văn như mây ở trên trời, rót rượu Quỳnh Tương vào để đãi Thúy Kiều :
        Chén HÀ sánh giọng QUỲNH TƯƠNG,
        Dải là hương lộn bình gương bong lồng !

        Để tìm hiểu một cách thấu đáo, chính xác sự liên quan giữa các điển tích Lam Kiều, Cầu Lam, Chày Sương, Quỳnh Tương … như thế nào, mời tất cả cùng đọc và tìm hiểu xuất xứ sau đây :

        Thật ra LAM KIỀU không phải là Cây cầu màu xanh lam, mà là LAM KIỂU DỊCH 藍橋驛, là Dịch quán Lam Kiều, nằm ở đông nam của xứ Lam Khê( Dòng sông xanh ) thuộc huyện Lam Điền tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Nơi nổi tiếng là đường cái quan ra vào kinh thành Trường An của đời Đường. Lam Kiều còn nổi tiếng với câu chuyện của Bùi Hàng cưới được vợ đẹp là Vân Anh và vợ chồng đều lên tiên theo tích sau đây...

        Chung thuyền gặp Vân Kiều

        Theo sách Thái Bình Quảng Ký, quyển 50: Đời Đường Mục Tông (795-824), năm Trường Khánh có Tú tài Bùi Hàng 裴航 lai kinh ứng thí, nhưng thi rớt. Buồn vì vô tích sự nên định đi du ngoạn Tương Dương một chuyến để giải khuây. Khi đến bến để thuê thuyền thì chỉ còn một khoang thuyền nhỏ, khoang chính của thuyền đã có một phu nhân thuê rồi. Mặc dù có rèm sáo che chắn, nhưng vì ở chung trên một chiếc thuyền, lúc lên xuống ra vào, khi gió động rèm châu, Bùi Hàng cũng lén ngắm nhìn dung nhan của vị phu nhân chung thuyền. Chàng chợt ngẩn người ra và mê mẫn trước sắc đẹp như tiên giáng thế của vị phu nhân mà ngày thường chỉ nghe tiếng nói thanh tao như ngọc của nàng qua bức rèm châu. Hỏi thăm thị nữ theo hầu thì được biết đó là Phàn Phu Nhân. Chàng bèn làm một bài thơ tỏ tình ái mộ của mình, rồi nhờ thị nữ chuyển đến cho phu nhân bài thơ sau đây :
        同舟胡越猶懷想, 
        況遇天仙隔錦屏。 
        倘若玉京朝會去, 
        願隨鸞鶴入青雲。 
âm Hán Việt:
        Đồng chu Hồ Việt do hoài tưởng
        Huống ngộ thiên tiên cách cẩm bình
        Thảng nhược Ngọc kinh triều hội khứ
        Nguyện tùy loan hạc nhập thanh vân.
có nghĩa :
        Cùng thuyền Hồ Việt cũng thương nhau,
        Huống gặp người tiên cách sáo rào.
        Nếu đó Ngọc Kinh về phó hội,
        Nguyện cùng chắp cánh vút trời cao !

        Phàn phu nhân xem xong mỉm cười nói thầm : Rõ khéo đa tình, rất tiếc ta không phải là đối tượng của chàng ! Bèn lấy ra một mảnh hoa tiên, cất bút đề thơ hồi âm :
        一飲瓊漿百感生, 
        玄霜搗盡見雲英。 
        藍橋便是神仙窟, 
        何必崎嶇上玉京?
âm Hán Việt:
        Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh
        Huyền sương đão tận kiến Vân Anh
        Lam Kiều tiện thị thần tiên quật
        Hà tất khi khu thướng Ngọc Kinh ?     
có nghĩa :
        Một chén quỳnh tương trăm cảm sanh,
        Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
        Lam Kiều chốn ấy thần tiên ngụ,
        Sao phải gập ghềnh đến Ngọc Kinh ?!

         Bùi Hàng đọc thơ mà không hiểu ngụ ý của Phu nhân muốn nói chi. Huyền sương là cái gì và Vân Anh là ai, sao lại ở trong thần tiên quật (hang động của thần tiên). Chàng cứ ngẩn ngơ suy nghĩ mãi không hiểu nàng muốn ám chỉ việc gì. Chừng định hồn lại thì phu nhân và thị nữ đã lên bờ đi mất. Dò la mãi cũng không biết được mãi mai tin tức gì. Buồn lòng, chàng bèn quay trở lại Trường an định chờ khoa thi tới. Khi về đến Lam Kiều Dịch, xa xa trông thấy có mấy mái nhà tranh thật nên thơ, sẵn đang khát nước chàng bèn ghé lại xin chén nước uống. Sau khi hỏi xin bà lão đang ngồi quay tơ trứơc cửa, thì bà lão gọi vói vào trong nhà : " Vân Anh, bưng nước ra mời khách !". Bùi Hàng ngẩn người ra nhớ lại bài thơ của Phàn phu nhân có nhắc đến Vân Anh. Chàng hồi hộp nhìn vào bên trong bình phong, quả nhiên một người con gái khoảng mười lăm mười sáu tuổi đẹp như tiên nga bưng nước ra mời khách. Chàng uống cạn ly nước mát ngọt lịm tận tim gan. Tuy nàng đã lui vào bên trong mà hương thừa vẫn còn phảng phất đâu đây. Chàng lấy cớ là đi đường người mệt ngựa mõi mà nấn ná ở lại nghỉ ngơi.

        Sau khi làm quen và trao đổi hàn huyên với bà lão, Bùi Hàng mới khẩn khoản ngỏ ý muốn xin cưới Vân Anh, thì bà lão bảo rằng :" Đó là cháu gái của lão, bà cháu sống nương tựa lẫn nhau, nếu muốn cưới nó thì phải giúp lão giả xong thang thuốc Huyền Sương, vì là thuốc của tiên ban nên phải giả bằng chày ngọc cối ngọc. Nếu trong một trăm ngày mà chàng tìm được chày ngọc cối ngọc đến đây giả thuốc cho ta , thì ta sẽ gả nó cho chàng ". Bùi Hàng vui mừng hớn hở từ biệt bà lão để ra đi tìm chày ngọc cối ngọc.

        Chàng lang thang suốt hơn hai tháng trường, bỏ cả khoa thi để quyết chí tìm chày cối ngọc. Nhưng vẫn biền biệt không tìm đâu ra cả. Buồn lòng và lo lắng, gặp ai cũng chỉ hỏi có chày ngọc cối ngọc mà thôi. Một hôm đang lang thang để hỏi thăm tin tức ở kinh thành, tình cờ gặp được người buôn ngọc cho chàng biết là có người đang rao bán chày cối ngọc, nhưng lại đòi đến hai ngàn lượng bạc. Chàng đành phải bán cả hành trang, cả ngựa và cả tên gia đồng theo hầu mới đổi được chày ngọc cối ngọc mang về Lam Kiều cho bà lão. Bà lại bảo chàng phải ở lại Lam Kiều để giã thuốc Huyền Sương cho đúng một trăm ngày nữa.

Bùi Hàng dâng thuốc

        Khi thuốc đã giã xong và khi bà lão đã uống xong thuốc, bèn dẫn Vân Anh ra đi và bảo chàng hãy nán đợi. Hôm sau, có đoàn ngựa xe từ đâu đến đón chàng đi đến một nơi mây mù vần vũ, lầu các nguy nga, tòa rộng dãy dài, tiêu thiều nhạc sáo vang vang, trúc tơ dìu dặc như tiên cảnh. Bà lão không còn nghèo nàn như trước mà hiện ra như một lão Phật gia trong cung tiên, cô dâu Vân Anh đẹp rực rỡ với " Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng " được thị tì hai bên đở ra để làm lễ tơ hồng. Bùi Hàng bàng hoàng ngây ngất, sung sướng đê mê bên cô dâu thơm phức và đẹp như … tiên !

        Sau khi cử hành hôn lễ, bà lão còn đưa hai vợ chồng đến ra mắt một tiên nương chị của cô dâu Vân Anh là Vân Kiều. Bùi Hàng mới giật mình nhận ra đây là Phàn phu nhân đi cùng thuyền với mình lúc trước. Thì ra Vân Kiều Phàn phu nhân đã báo trước mối duyên giã thuốc của mình với Vân Anh ở Lam Kiều rồì, mà trước đây mình đâu có biết.

        Sau những năm tháng sống vui vẻ bên nhau, vợ chồng Bùi Hàng cũng cùng tu và cùng đắc đạo thành tiên cả.


        Đây cũng là câu chuyện xung đột giữa đạo Nho và đạo Lão. Vì chuyện của Bùi Hàng mà một số Nho sinh bỏ Nho theo Lão để tu tiên. vừa có vợ đẹp vừa có cuộc sồng thoải mái như … tiên. Không bị ràng buộc bởi công danh phiền toái mà còn phải biết a dua nịnh bợ với cấp trên và cũng chưa chắc đã được yên thân trong quan trường đầy hiễm họa.

        Đỗ Chiêu Đức 

Lam Kiều Dịch Quán

Vị Tết Còn Chưa

<D.419~Thơ Xuân>



VỊ TẾT CÒN CHƯA

Nghi rằng vị tết vẫn còn chưa
Bởi lẽ tình hoa cứ thẹn thùa
Nụ hé chồi non vòi vĩnh hỏi
Đài lăm cánh mỏng chực chờ thưa
Dời then cửa nắng e mù giẫm
Mở ngưỡng hồn xuân ngại gió lùa
Cảm sắc đông tàn do dự mãi
Ông trời bất cập những ngày mưa

Mai Thắng - 190107

★ Bài xướng của Dung Nguyên

MƯA BỤI

Chuyển tiết xuân trời đẫm bụi mưa
Nồm nam ẩm ướt nhởn nhơ lùa
Hàng cây trụi nhẵn trơ cành nhỏ
Góc chợ xa mờ quạnh lán thưa
Bỡ ngỡ khung trời chim én liệng
Lung linh mặt đất sắc hoa thùa
Hình như cõi dạ hoài xao xuyến
Khẽ hỏi quê chàng tết đến chưa?

7/1/2018
DUNG NGUYÊN

★ Bài hoạ khác của Ngọc Lê

MƠ MÀNG XUÂN

(Nđt-Bát láy)

Xuân thời tiết bỗng sụt sùi mưa
Lạnh lẽo từng cơn gió thoảng lùa
Quạnh quẽ cây bàng phơi lá đỏ
Âm thầm dáng bậu ẩn rèm thưa
Chiều nghe điệu lý êm đềm trỗi
Tối thả đường kim lặng lẽ thùa
Cứ thẫn thờ trông đào trổ nụ
Mơ màng dạ hỏi Tết về chưa?

Ngọc Lê. 10/1/19-622

Xuân Ngẫm Lại Thời

<D.418~Thơ Xuân>



XUÂN NGẪM LẠI THỜI

Ngàn cơn biến loạn thời binh lửa
Chỉ đạt thanh bình thôi nói nữa
Lũ trẻ chơi đùa hoạt góc sân
Quân già ngẫm vọng qua thềm cửa
Bày phơi não kiệt khúc bi hài
Rớt mượn danh tồn nơi đỉnh giữa
Cảm ngỡ ngàng khi đối diện lòng
Hung tàn bạo ác đời khôn rửa.

Mai Thắng –
190107

★ Bài xướng của Như Thị (Lê Đăng Mành)

XUÂN PHƯỚC LẠC

“Vần trắc NĐT”

Vũ trụ hình như đà nhóm lửa
Trời đông lại ấm dần lên nữa
Hương thầm mỹ cảm đọng ngoài hiên
Nhụy nhã tinh thần lan trước cửa
Phụng đón mầm tươi dẫu chẳng tiền
Cung chờ sắc đượm dù không của
Bên thềm nụ đã phất phơ màu…
Phước lạc trung đường treo ở giữa

Như Thị

06 tháng 1 2019

Dạo Bước Tầm Xuân

<D.417~Thơ Xuân>



DẠO BƯỚC TẦM XUÂN

Dạo gót khuôn hè thưởng sắc hoa
Vàng xanh trắng đỏ thật xinh mà
Như chùm nắng mới ngây ngô ngả
Tựa tiếng mưa phùn sụt sịt sa
Lá rụng bên đường bay lả tả
Hồ in dáng liễu đứng la đà
Xuân nay sáu bảy thôi vồn vã
Quãng nhạc đi vào khúc rệu ca.

Mai Thắng – 190104

★ Bài xướng của Trường Lưu Thuỷ

VẦN XUÂN

Xuân về dạo gót ngắm vườn hoa
Bách hợp xinh tươi dáng mượt mà
Thủy cúc khoe màu trong nắng ngả
Anh đào trổ sắc giữa mưa sa
Nàng thơ ẩn hiện yêu yêu quá
Bóng Liễu mơ màng nhớ nhớ đa
Sáu bảy mùa qua sao vẫn lạ
Nghe lòng rộn rã bản tình ca

KON TUM 2-1-19

03 tháng 1 2019

Mai Trúc

<C.010><Điển tích văn học> 
Đề tài: MAI TRÚC
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC



        MAI TRÚC là nói gọn lại của Thành ngữ Điển tích "THANH MAI TRÚC MÃ". Trước khi tìm hiểu Điển Tích nầy, mời đọc bài thơ Ngũ ngôn Cổ phong Nhạc phủ của Thi Tiên LÝ BẠCH sau đây:

長干行      TRƯỜNG CAN HÀNH

妾髮初覆額, Thiếp phát sơ phúc ngạch,
折花門前劇。 Chiết hoa môn tiền kịch.
郎騎竹馬來, Lang kỵ trúc mã lai,
遶床弄青梅。 Nhiễu sàng lộng thanh mai.
同居長干裡, Đồng cư Trường Can lý,
兩小無嫌猜。 Lưỡng tiểu vô hiềm sai.
十四為君婦, Thẫp tứ vi quân phụ.
羞顏未嘗開。 Tu nhan vị thường khai.
低頭向暗壁, Đê đầu hướng ám bích,
千喚不一回。 Thiên hoán bất nhứt hồi.
十五始展眉, Thập ngũ thỉ triển mi,
願同塵與灰。 Nguyện đồng trần dữ hôi.
常存抱柱信, Thường tồn bảo trụ tín,
豈上望夫臺。 Khởi thượng Vọng phu đài.
十六君遠行, Thập lục quân viễn hành,
瞿塘灩澦堆。 Cù Đường diễm dự đôi.
五月不可觸, Ngũ nguyệt bất khả xúc,
猿聲天上哀。 Viên thanh thiên thượng ai.
門前遲行跡, Môn tiền trì hành tích,
一一生綠苔。 Nhất nhất sinh lục đài.
苔深不能掃, Đài thâm bất năng tảo,
落葉秋風早。 Lạv duệp thu phong tảo.
八月蝴蝶黃, Bát nguyệt hồ điệp hoàng,
雙飛西園草。 Song phi tây viên thảo.
感此傷妾心, Cảm thử thương thiếp tâm,
坐愁紅顏老。 Tọa sầu hồng nhan lão.
早晚下三巴, Tảo vãn hạ Tam Ba,
預將書報家。 Dự tương thư báo gia.
相迎不道遠, Tương nghinh bất đạo viễn,
直至長風沙。 Trực chí trường phong sa.
李白                      Lý Bạch

Thanh Mai Trúc Mã kiểu Tàu và Kiểu Tây

* Chú thích

        - Trường Can : Tên một làng, nay thuộc huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô. HÀNH là tên một khúc hát trong Nhạc phủ như CA, KHÚC, HÀNH … Nên TRƯỜNG CAN HÀNH là Khúc hát xứ Trường Can. Ngoài bài nầy của Lý Bạch ra, ta còn có 2 bài TRƯỜNG CAN HÀNH ngũ ngôn tuyệt cú nhạc phủ cũng rất nổi tiếng của Thôi Hiệu ( Mời đọc Đường Thi Tuyển Độc I, bài 21 ).
        - Phúc Ngạch : Phúc là Đậy, Ngạch là Trán; nên Phúc Ngạch là Phủ trán.
        - Kịch : không phải là Kịch nghệ, ở đây có nghĩa là Chơi Đùa.
        - Sàng : không phải là cái Giường ngủ, mà là cái Miệng Giếng.
        - Hiềm Sai : là Nghi Ngại. Vô Hiềm Sai là Không nghi ngại gì cả, rất vô tư.
        - Triển Mi : là Mở mày. Ta hay nói là Mở Mày Mở Mặt, ý chỉ Mặt Mũi đã trưởng thành, đã đẹp đẽ. Mở Mày Mở Mặt trong tiếng Việt ta còn dùng để chỉ Vui Vẻ hân hoan vì Hãnh Diện bởi việc gì đó.
        - Nguyện Đồng Trần Dữ Hôi : là Nguyện cùng tro cùng bụi, ý muốn nói là Sẽ Đồng cam cộng khổ với nhau.
        - Bão Trụ Tín : là theo Thành ngữ : BẢO TRỤ CHI TÍN 抱柱之信 là Cái Uy Tín Về Việc Ôm Cột (Cầu). Theo sách TRANG TỬ: VĨ SINH hẹn với cô gái ở dưới trụ cầu. Khi nước lớn, cô gái không đến, VĨ SINH ôm lấy cột cầu "chịu trận" mà chết. Si tình đến thế là cùng! Cụ NGUYỄN DU gọi ÔM CỘT là ẤP CÂY và đã mượn tích nầy để cho KIM TRỌNG "Hù" THÚY KIỀU:
        ...Tháng tròn như cuội cung mây,
       Trần trần một phận "ẤP CÂY" đã liều!

rồi mới tỏ tình...
       Tiện đây xin một hai điều,
        Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?!

 nếu nàng chẳng “ soi đến dấu bèo “ thì ta sẽ chết như Vĩ Sinh cho nàng xem !

        Bảo Trụ Chi Tín

        - Vọng Phu Đài : là Đài Trông Chồng, ở cách Nam Huyện của tỉnh Tứ Xuyên hai ba chục dặm. Tương truyền là nơi của Tôn Phu Nhân đứng để ngóng trông Lưu Bị, khi Bị đã chết ở Bạch Đế Thành .
        - Cù Đường : Tên một bến nước, ở phía thành đông của Quỳ Châu Phủ, tên cũ là Tây Lăng Giáp, là cửa ngỏ ra vào của Tam Giáp, hai bên vách đá dựng đứng giữa dòng Trường Giang.
        - Hành Tích : là Dấu tích của bước chân đã đi qua. Là Dấu Giày.
        - Tam Ba : là Ba Quận, Ba Đông, Ba Tây, hợp xưng là Tam Ba.
        - Trường Phong Sa : là địa danh, nay thuộc huyện Qúy Trì, tỉnh An Huy.

        Vọng Phu Đài

* Dịch nghĩa

        KHÚC HÁT XỨ TRƯỜNG CAN
Khi tóc của thiếp vừa phủ lưa thưa xuống trán, đang hái hoa chơi đùa phía trước cửa, thì chàng cởi ngựa tre chạy đến, chạy vòng quanh miệng giếng để ngắt ghẹo cành mai xanh. 
Chúng ta cùng lớn lên ở xứ Trường Can, hai đứa trẻ cùng ngây thơ trong trắng không úy kỵ gì cả ! Nhưng… Mười bốn tuổi thiếp đã về làm vợ chàng rồi, mà vẫn còn rất thẹn thùng bẽn lẽn, chỉ cúi đầu nằm xây mặt vào vách, chàng gọi trăm ngàn lần vẫn không quay đầu lại. Đến mười lăm tuổi mới mở mặt mở mày ra nguyện cùng chàng đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau, và quyết một lòng chung thủy với chàng (bảo trụ tín) cho dù phải lên Vọng Phu Đài để trông ngóng chồng về. Mười sáu tuổi chàng lại phải đi xa đến tận xứ Cù Đường hiễm trở. Giữa tháng năm mùa hè nóng nực, tiếng vượn hú vang mãi tận trời xanh. Những dấu chân của thiếp khi đưa tiễn chàng trước cửa đều đã nổi rêu xanh, rêu dầy đến nỗi thiếp cố quét nhưng vẫn không đi. Lá rụng theo làn gió thu sớm thổi, những con bướm tháng tám đã vàng vọt, nhưng vẫn bay song đôi trong vườn tây đầy cỏ, làm cho thiếp cảm thấy thương tâm cho thân phận lẻ loi, ngồi đây mà sầu não cho cái nhan sắc sớm già nua của mình ! Nếu trong một sớm tối nào đó mà chàng về đến xứ Tam Ba, hãy viết thư về nhà báo cho thiếp biết trước, thiếp sẽ chẳng nệ đường xa mà đi đón chàng dù cho phải trực chỉ đến tận Trường Phong Sa!
Tình cảm chân thực, thật thà nhưng tha thiết gắn bó của người vợ trẻ cùng lớn lên với chồng trong cùng một xóm một làng. Từ ngây thơ trong trắng đến lấy nhau hợp cẫn trong thẹn thùng, rồi khắng khít nhau, ủn ỉn như lợn ăn khoai, thề cùng đồng cam cộng khổ, để rồi lại phải chia tay nhau trong sầu nhớ. Hè đi thu đến, mơ ước được đoàn viên và sẽ chẳng ngại vượt đường xa mà đón chàng về sum họp ! Bài thơ nổi tiếng không chỉ vì chuyện tình của đôi lứa mà còn vì hai câu thơ bất hũ :
        Lang kỵ Trúc Mã lai,                        郎騎竹馬來,
        Nhiễu sàng lộng Thanh Mai.         繞床弄青梅。
đã hình thành Thành ngữ Điển Tích “Thanh Mai Trúc Mã 青梅竹馬“ để chỉ những đôi lứa cùng lớn lên bên nhau, rồi cùng yêu nhau, cùng thành chồng vợ với nhau. Sau dùng rộng ra để chỉ các cặp đôi là bạn học với nhau hay quen biết nhau từ tấm bé, từ trước … rồi mới yêu nhau, lấy nhau. Dùng rộng ra hơn nữa là … chỉ để chỉ tình nghĩa vợ chồng với nhau mà thôi ! và … Thành ngữ nầy còn được nói gọn thành “ Mai Trúc “hay “ Trúc Mai “ như trong Truyện Kiều tả lúc Thúy Kiều bán mình chuộc cha đã chối lại với Thúy Vân để nói lại với Kim Trọng rằng :
        Tái sinh chưa dứt hương thề,
        Làm thân trâu ngựa đền nghì Trúc Mai.

và khi Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cụ Nguyễn Du đã viết :
        Một nhà sum họp Trúc Mai,
        Càng sâu nghĩa bễ càng dài tình sông !
hay khi tưởng Thúy Kiều đã chết cháy trong thư phòng, chàng Thúc cũng đã khóc :
        Tưởng rằng Mai Trúc lại vầy,
        Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau !

        Bắt chước theo gương người xưa, trong bài thơ “ Thắm Thoát Năm Mươi Năm “ tả lại mối tình của tuổi học sinh, Đỗ Chiêu Đức tôi cũng kết thúc bài thơ bằng 8 câu :
        Những lúc trà dư tửu hậu tan,
        Chạnh niềm cô lữ buổi xuân tàn.
        Chiều nay chợt thấy lòng xao xuyến,
        Ngậm ngùi đọc lại khúc Trường Can.
        “Mai Trúc“ ngày xưa đã dở dang,
        Phương trời cách biệt những bâng khuâng,
        “Thanh Mai“ vẫn thắm như ngày trước ?!
        “Trúc Mã  giờ đây đã cỗi cằn !!!

        Thanh Mai Trúc Mã thời nay

        * Diễn nôm

        KHÚC HÁT TRƯỜNG CAN

        Khi tóc thiếp mới vừa phủ trán,
        Bẻ hoa chơi lảng vảng trước sân.
        Ngựa tre chàng cưởi đến gần,
        Chạy quanh bờ giếng ghẹo cành mai xanh.

        Xứ Trường Can em anh cư trú,
        Hai bé con vẫn cứ thơ ngây,
        Mười bốn làm vợ chàng ngay,
        Thẹn thùa chưa biết mảy mai chuyện tình.

        Cứ quay đầu mặt nhìn vào vách,
        Gọi ngàn lần… nhìn vách làm thinh.
        Mười lăm mới đắm đuối tình,
        Nguyện cùng lên thác xuống ghềnh có nhau !

        Như Vĩ Sinh ôm cầu giữ hẹn,
        Nào phải cần thẹn đá vọng phu.
        Mười sáu chàng phải viễn du,
        Cù Đường non nước mịt mù xa xôi.

        Trời tháng năm tơi bời nóng bức,
        Tiếng vượn buồn thổn thức mây xanh.
        Dấu giày đưa tiễn bước anh,
        Giờ đà đã phủ rêu xanh mất rồi !

        Rêu xanh phủ ngậm ngùi khôn quét,
        Lá vàng rơi gió rét thu sang.
        Trung thu tháng tám bướm vàng,
        Song song đôi lứa bay sang vườn đoài.

        Thấy đôi bướm ai hoài lòng thiếp,
        Hồng nhan sầu ai biết già mau.
        Sớm chiều mơ ước bên nhau,
        Nếu thư chàng báo về mau lại nhà,
 
        Thiếp sẽ chẳng nề hà đường xá,
        Nguyện vượt ngàn đến xứ Tam Ba.
        Thẳng dong tận Trường Phong Sa,
        Đón chàng về lại quê nhà đoàn viên !
        ĐCĐ

        Nhưng đó chỉ là mơ ước của nàng thiếu phụ trông chồng mà thôi, chứ thực tế thì … vẫn biền biệt bặt vô âm tín, không biết chàng đang ở nơi nao và khi nào thì mới về quê như trong bài XUÂN TỨ cũng của Lý Bạch là :
        Đương quân hoài quy nhật,
        Thị thiếp đoạn trường thì !
có nghĩa :
        Khi chàng nhớ trở lại nhà,
        Là khi lòng thiếp xót xa đoạn trường!

        Đỗ Chiêu Đức

Đếm ngược thời gian

<D.416><Cảm Xúc>




ĐẾM NGƯỢC THỜI GIAN

Nhẫn đếm kim giờ trở ngược không*
Chìm tư lự kiểm giấc mơ hồng
Vòng quay khẽ níu hương thừa ảnh
Khúc phổ êm hành điệu vãn đông
Quá cảnh an bài tin nhiễu loạn
Nhờ duyên thấu cảm vị cay nồng
Hồn xuân khát vọng luồng suy tưởng
Điểm xuyết trên cành những nụ bông

Mai Thắng
@1412~190101
* số không, tính mốc thời gian là Tết Kỷ Hợi.

★ Bài xướng của Duy Anh

ĐÓN GIAO THỪA

Đếm ngược thời gian tới số không
Giao Thừa đã điểm giữa trời Đông
Vạn người nô nức xem hoa giấy
Đôi lứa rộn ràng ngắm pháo bông
Tiễn cựu dịu dàng lời chúc đẹp
Nghinh tân âu yếm nụ hôn nồng
Times Square! * Cùng đón Mừng Năm Mới
Ánh mắt ngời lên, má ửng hồng...

Duy Anh
Happy New Year 2019

★ Bài hoạ của Cao Mỵ Nhân

PHÚT GIAO NIÊN

Mải đếm thành quên cả sắc không
Giao niên thường ngẫm chuyện tây đông
Phố phường New York banh vừa nổ
Làng xóm Bolsa pháo đã bông
Tống cựu V N không nhúc nhích ( Vi En )
Nghinh tân U S vẫn nôn nồng ( U Ét )
Chúc mừng năm mới tưng bừng quá
La hét đèn hoa ngập ánh hồng ...

Hawthorne 26 - 12 - 2018
CAO MỴ NHÂN



★ Bài hoạ trên FB của Ngọc Liên

ĐIỆP KHÚC MÙA XUÂN

Ơi tình tuổi ngọc nhớ gì không?
Ngõ hẹn chiều nay nắng trải hồng
Mộng ngủ êm đềm bên quãng gió
Mây cười rộn rã dưới thềm đông
Lời thơ nhỏ giữ còn thơm ngát
Ý nhạc người gieo vẫn thắm nồng
Điệp khúc mùa xuân dìu dặt trỗi
Cây đời thoáng đã ngọt ngào bông.

Ngọc Liên 04.01.19

Trước Cửa Thềm Xuân

<D.415~Thơ Xuân>



TRƯỚC CỬA THỀM XUÂN

Tình xuân đến cửa đứng giăng ràng
Rộn rã con người đuổi bóng hoang
Ngọn cỏ tây bồi thân dưỡng thắm
Vườn hoa cúc chuẩn nụ chen vàng
Âm thầm tích trữ gom thành tổ
Lặng lẽ đong đầy chất ủ khoang
Hãy mở lòng thơ tràn nhiệt huyết
Chờ cơ trỗi dậy bẻ duyên bàng

Mai Thắng
181231

★ Bài xướng của Thạch Hãn (Lê Cảnh Tiến)

TRƯỚC THỀM XUÂN

Trước cửa mùa xuân đã rộn ràng
Ta ngồi đắm giữa mộng chiều hoang
Đường xưa ngọn cỏ choàng sương trắng
Nẻo cũ bờ sông nhuộm nắng vàng
Mỗi độ thơ hồng chen kín vở
Bao lần lệ úa chảy đầy khoang
Giờ đây bến đỗ hoàng hôn lạnh
Tự hỏi đời sao quá bẽ bàng ./.

LCT 31/12/2018

Uống Rượu Năm Mới

<D.414~Thơ Xuân>



UỐNG RƯỢU NĂM MỚI

Xem ra cảnh tết cũng bè bè
Mở tiệc cho cùng dự với nghe
Quất thử ly này vô tụ nhé
Hoà thêm vận nữa góp tay nè
Ê ! nàng bán số chia vài vé
Ớ ! chú bồi bàn lựa ít ve
Nhớ vững chân ngồi không để té
Chờ tin hãy cứ cụng đi hè.

Mai Thắng
181230

★ Bài xướng của Hoành Trần

CHÚC MỪNG NĂM MỚI

Vội viết đôi câu gửi bạn bè,
Chúc mừng năm mới thiệt bui nghe.
Điều xui vận rủi quăng đi nhé,
Việc tốt duyên may ghé đến tề
Vé số chơi vui mua ít vé.
Rượu trà tính toán sắm vài be,
Khéo mà lỡ trúng coi chừng té,
Hạnh phúc tràn dâng sướng quá hè!

Hoành Trần
30/12/18

Những thoáng đêm về

<D.413><Thời Tiết-Khí Hậu>



NHỮNG THOÁNG ĐÊM VỀ

Nguyệt toả canh tàn dẫn áng thơ
Màn sương nhẹ tản khói giăng mờ
Khuya- thềm lặng lẽ cơn hoà mộng
Vắng- ngõ thâm trầm điệu phổ mơ
Giấc ngủ không đầy đêm tĩnh niệm
Hoàng hôn vẫn nghẹn thế quân cờ
Còn say cố gọi ai buồn tỉnh
Nắng hửng lùa nghiêng một cõi bờ.

Mai Thắng
181231

★ Bài xướng của Hương Thềm Mây

MỘT THOÁNG ĐÊM

Đêm khuya nguyệt tỏa lộng trời thơ
Ngõ trúc sương gieo lãng đãng mờ
Dế cỏ thềm hoang hòa khúc mộng
Tắc kè ngõ bụi tấu cung mơ
Muội mê trần thế bao cơn loạn
Tĩnh giấc nam kha một ván cờ
Cuộc thế quanh co cơn huyễn tưởng
Trăm năm một thoáng lạnh đôi bờ.

Hương Thềm Mây
GM.Nguyễn Đình Diệm

Xuân Hưởng Thọ Trời

<D.412~Thơ Xuân>



XUÂN HƯỞNG THỌ TRỜI

TIỄN bước đông tàn đón sắc tươi
NĂM dần khép lại với bao người
QUA ngày bão sót mùa xoay chuyển
MỞ đức tin truyền sức vượt khơi
CỬA sẵn sàng nghênh tròn ý nguyện
LÒNG thanh thản giữ vẹn môi cười
VUI cùng cảnh trí màu hoa điểm
HÁI LỘC ĐẦU XUÂN HƯỞNG THỌ TRỜI.

Mai Thắng
181230

★ Bài xướng của Trầm Vân
MẾN CHÚC THỌ AN XUÂN PHƯỚC LỘC

2019 NGẬP ƠN TRỜI

MẾN chao cành biếc cánh đào tươi
CHÚC hạnh phúc vui đến mọi người
THỌ khỏe bóng già con phố đợi
AN lành mái ấm sóng tình khơi
XUÂN về rực rỡ nao làn gió
PHƯỚC rải hân hoan đẹp nụ cười
LỘC biếc vườn xanh lòng mở cửa
HAI KHÔNG MỘT CHÍN NGẬP ƠN TRỜI

Trầm Vân

30 tháng 12 2018

Năm tàn khắc khoải

<D.410><Tiết Khí>



NĂM TÀN KHẮC KHOẢI

Tiết lạnh nhen dầy buổi vãn đông
Đường đi tạo hóa vẫn xuôi dòng
Tà dương nhạt nhẽo chiều im lắng
Gió bão tiêu điều cảnh đợi trông
Duỗi mộng hồn côi tìm sóng ảo
Vầy hương vị ủ nhóm mơ hồng
Năm tàn lịch gỡ dần rơi hết
Để nghiệm âm thầm nỗi trống không.

Mai Thắng
181224

★ Bài xướng của Thầy Mai Lộc

NĂM TÀN

Thư phòng quạnh quẽ, lạnh chiều đông.
Mưa gió lê thê buốt giá hồn.
Sương trắng mơ hồ giăng khắp phố
Lá vàng tan tác chảy theo dòng.
Đèn sao nhấp nháy rực đường phố
Nhạc thánh u trầm vọng cõi không.
Thoi thóp năm tàn, cuốn lịch mỏng
Mấy tờ còn lại, sắt se trông!

Mailoc
12-23-18

★ Bài hoạ của Dung Nguyên

ĐÔNG TÀN

Cây giờ nảy lộc sắp tàn đông
Tí tách phùn giăng chảy hóa dòng
Đám cỏ xanh rờn xao xuyến mộng
Hoa đào rực đỏ ngỡ ngàng trông
Trào dâng cảm xúc hòa tươi thắm
Trỗi dậy niềm tin ủ thắm hồng
Dạ khát khao nhiều bao ước vọng
Cho hồn bổng vút tận tầng không...

27/12/2018
DUNG NGUYÊN

★ Bài hoạ của Mai Thành

CẢNH XÔ BỒ

Chạp về chẳng lạnh dẫu mùa đông
Chợt nắng xen mưa héo hắt lòng
Lãng đãng mù sương che hút lối
Mịt mờ mây kịt phủ quây dòng
Chiều tà lặng lẽ lòng tê tái...
Tuổi xế âm thầm chốn tĩnh không
Ngẫm sự thế nhân sao chán cảnh
Xô bồ danh lợi hám tiền trông !

122718 - Mai Thành.

27 tháng 12 2018

X82. Mưa Buổi Sớm Đông

<D.409~Bốn Mùa> 


MƯA BUỔI SỚM ĐÔNG

Rả rích bên hè những giọt mưa
Tàn đông vệt hửng khó lên vừa
Bình minh buổi sớm còn im đọng
Lửa bếp hương trà vẫn nhẹ đưa
Nghiệm chuỗi nguy nàn treo bất ổn
Tìm phương bỏ chạy lướt đi bừa
Nhìn quanh thế cuộc màn sinh tử
Khéo vẽ an nhàn cảnh dạ thưa!

Mai Thắng
181227

★ Bài hoạ của Van Be Ngo (Đức)

VỀ HAMBURG

Chân về Hamburg ngày đông mưa,
Ba tám năm xa kỷ niệm thừa.
Quãng vắng sau lưng buồn chất chứa,
Dòng đời định mệnh khúc hơn thua!
Nơi đây mái ấm ngày nương tựa,
Chốn cũ ân tình thuở nắng xưa.
Tuổi đã xế chiều nghiêng bóng cửa,
Từng ngày tóc bạc điểm lưa thưa.

31.12.2018
Ngô Văn Bé (Germany)

★ Bài hoạ của Cao Mỵ Nhân

SÁNG MƯA GIÔNG

Bạn đã nhìn xem sáng chuyển mưa
Một màn hơi nước ướt mây vừa
Rớt ngang thành phố như buồn bực
Đọng lại chân trời tưởng tiễn đưa
Tạm trú hiên nhà nghe gió tạt
Rời vô ngõ hẻm đẩy xe bừa
Ngày lên chưa đủ chan hoà nắng
Thấp thoáng bên đường ánh điện thưa...

Hawthorne 8 - 1 - 2019
CAO MỴ NHÂN

★ Bài hoạ của Thầy Mai Lộc
(Kỷ niệm trận tuyết đầu khi đến Mỹ 1983 - Pennsylvania)

TRẬN TUYẾT ĐẦU

Bước xuống phi trường, tí tách mưa
Tháng giêng Bắc Mỹ rét nào vừa.
Bếp hồng ấm áp sương mờ đọng
Ngõ tối lạnh lùng tuyết trắng đưa.
Xe cũ đi cày, khi ái ngại
Ngựa già kiếm sống, lúc xông bừa.
Nhớ nhà quạnh quẽ, ai chia sẻ?
Mộng ước Xuân về, gió sẽ thưa.

Mailoc

★ Bài hoạ của Mai Xuân Thanh

MƯA CALIFORNIA

Cali sáng dậy thấy trời mưa
Sửa soạn đi làm cũng kịp vừa
Tám hướng mây đen sương lá đọng
Bốn phương gió nhẹ nhánh cây đưa
Tuổi già lụm cụm đi run rẩy
Trai tráng hiên ngang chạy nhảy bừa
Thế sự kẻ bàn người mỗi ý
Phong trần có gọi chẳng ai thưa

MAI XUÂN THANH
Ngày 09/01/2019

★ Bài hoạ của Thầy Trầm Vân

Nhớ Làng Quê

Rơi lạnh qua lòng những giọt mưa
Làng quê khóm trúc nhớ sao vừa
Rộn lời chim hót hàng cây đón
Vui bóng con về dáng mẹ đưa
Vườn biếc hoa cười nghiêng bướm lượn
Ruộng xanh nắng rải nhẹ tay bừa
Đẹp tình sông nước con đò nhỏ
Mùa gọi xuân về tiếng gió thưa!

Trầm Vân

★ Bài hoạ của Thy Lệ Trang

BUỔI SÁNG TRỜI MƯA

Năm nay, tuyết ít lại nhiều mưa
Gió rét căm căm...thật chẳng vừa!
Trước ngõ ầm ầm con nước chảy
Hiên nhà xào xạc ngọn Thông đưa
May ghê...thức giấc không cần dậy
Thích lắm...về hưu khỏi phải bừa
Thoải mái cuộn tròn trong nệm ấm
Bao lần chồng gọi chả buồn thưa!

Thy Lệ Trang

★ Bài hoạ của Phương Hà

BÌNH MINH MƯA

Sáng sớm mà trời đã đổ mưa
Đắp thêm chăn ấm vẫn chưa vừa
Rào rào mái ngói từng cơn dội
Sầm sập cửa nhà mỗi đợt đưa
Xót kẻ gánh hàng không chỗ nghỉ
Thương người cày ruộng thế trâu bừa
Cảnh đời vất vả trong giông bão
Lo bữa cơm nghèo buổi chợ thưa.

Phương Hà

★ Bài hoạ của Quên Đi (Huỳnh Hữu Đức)

Chờ Xuân

Qua rồi những tháng ngập vì mưa
Tiết trở lạnh khô cũng mới vừa
Mặt nhật say vùi trong giấc mộng
Cỏ cây héo rủ gió mùa đưa
Ấm no đang đã sao lo rét
Hạnh phúc thực hư khéo nói bừa
Đông đến úa tàn bao ước vọng
Trông xuân mòn mỏi bạc đầu thưa.

Quên Đi

★ Bài hoạ của Như Thị (Lê Đăng Mành)

MƯA SẦU

Chiều đây thảm đạm cũng vì mưa
Tiễn cuộc tàn đông khắc khoải vừa…
Bến bãi buồn tênh nào kẻ gọi
Sông bờ lặng lẽ chẳng đò đưa
Đường quê quạnh quẽ trong mùa cấy
Nẻo xóm đìu hiu giữa chặng bừa
Xối xả ngoài song dầm rã rượi
Chen sầu miệng vẫn thốt lời thưa

Như Thị



★ Bài hoạ của Song Quang

Mưa đầu Xuân vẫn bên nhau

Trời mới đầu Xuân đã đổ mưa
Giọt rơi bao nhớ thấm cho vừa ?
Để ta âu yếm đem trao gởi
Mong bạn chung tình khỏi đợi đưa
Mặc gió chao nghiêng nào sợ ướt
Dẫu dù không mở cũng đi bừa
Bên nhau vẫn thấy lòng yên ấm
Chợ Tết ba mươi khách vắng thưa

Songquang

★ Bài hoạ của Minh Thuý

Mưa Chiều Đông

Lòng chiều bước dạo dưới cơn mưa
Áo lạnh quàng khăn ấm đủ vừa
Góc phố trời giăng mây xám ủ
Bên đường gió thổi lá vàng đưa
Sương mờ ngõ lối ai đi chậm
Nước đọng gương xe kẻ chạy bừa
Ánh điện đêm lên màu héo úa
Hoàng hôn lịm buốt bóng người thưa

Minh Thuý
9 tháng 1 _2019

★ Bài hoạ của Thanh Hoà

Sáng mưa

Sáng ngày tuyết tạnh lại dầy mưa
Nằm nán trong chăn mấy cũng vừa
Vắng vẻ tìm khôn ra kẻ đón
Đìu hiu kiếm khó được người đưa
Chẳng nề độc mã còn chăm ruổi
Không quản đơn thương vẫn gắng bừa
Sũng hạt mưa rơi thêm rét đậm
Cà phê lúc nẫy...khói mau thưa!

Thanh Hoà.

25 tháng 12 2018

Chỉ Hồng

<C.009~Điển tích văn học> 
Đề tài: CHỈ HỒNG 
Biên soạn: Đỗ Chiêu Đức


        Điển tích “ CHỈ HỒNG “ cũng được sử dụng rất nhiều trong văn học cổ Việt Nam ta, như khi nghe Kim Trọng tỏ tình, Thúy Kiều đã trả lời một cách rất khéo léo và khôn ngoan rằng:
        Dù khi lá thắm CHỈ HỒNG,
        Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

        Chỉ Hồng còn được nói trại đi thành CHỈ THẮM, như trong Tây Sương Ký :
        Nhân duyên sao khéo hẹn hò,
        Rắp đem CHỈ THẮM xe cho Trịnh Hằng.
... trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, Chỉ Hồng không gọi là Chỉ Thắm mà còn được gọi là DÂY THẮM như :
        Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
        Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.
        Ai ngờ trời chẳng cho làm
        Nở đem DÂY THẮM mà giam bông đào.

        Nhưng Dây Thắm, Chỉ Thắm hay Chỉ Hồng gì đều cùng một gốc Hán Việt là XÍCH THẰNG ( là sợi dây màu đỏ ) mà ra cả. Như lời Thúy Kiều đã nói với Kim Trọng trong lần đầu Kim Kiều hội ngộ :
        Nàng rằng hồng diệp XÍCH THẰNG,
        Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
... hay như lời Mã Giám Sinh đã thề và hứa với Vương Viên Ngoại khi sắp lên đường ở “Bề ngoài mười dặm trường đình “ là :
        Cạn lời khách mới thưa rằng :
        Buộc chân thôi cũng XÍCH THẰNG nhiệm trao.
        Sau dù sinh sự thế nào,
        Kìa gươm nhật nguyệt nọ dao qủy thần !
... hoặc như nàng cung nữ của trong Cung Oán đã than van oán trách :
        Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế,
        Sợi XÍCH THẮNG chi để vướng chân
 
        Và Xích Thằng hay Chỉ Thắm, Chỉ Hồng gì gì … đều do tay NGUYỆT LÃO mà ra cả. Nguyệt Lão đã xe Chỉ Hồng rồi thì … chạy trời không khỏi nắng, đôi lứa tất phải lấy nhau mà thôi, cho dù nàng cung nữ của Ôn Như Hầu có nghi ngờ thì cũng đành cam chịu :
        Tay NGUYỆT LÃO chẳng xe thì chớ,
        Xe thế nầy có dở dang không ?
đôi khi Nguyệt Lão còn được gọi là NGUYỆT SỨ, như trong truyện Từ Thức gặp Tiên :
        Lọ là NGUYỆT SỨ băng môi,
        Phận này duyên ấy ắt thời trong tay.

        Nguyệt Lão là từ nói gọn lại của nhóm từ “ NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月下老人“ là “Ông gìa dưới trăng “, vì chuyên xe tơ cho trai gái lấy nhau, nên còn được gọi là ÔNG TƠ, như khi Kim Trọng đến từ biệt Thúy Kiều để đi Liêu Dương hộ tang chú, thì Thúy Kiều cũng đã oán trách :
        ÔNG TƠ ghét bỏ chi nhau,
        Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.
hay khi bị Hồ Tôn Hiến ép gã cho thổ quan, Thúy Kiều lại một lần nữa lên tiếng oán trách :
        ÔNG TƠ sao khéo đa đoan,
        Xe tơ sao lại vơ quàng vơ xiên ?!

        Vậy, Ông Tơ là ai, Nguyệt Lão là ai, chuyện xe tơ là như thế nào mà người thì cam chịu, người thì “đổ thừa “, người thì oán trách … Mời đọc tiếp phần xuất xứ sau đây sẽ rõ. Điển tích Chỉ Hồng, Chỉ Thắm, Dây Thắm, Xích Thằng, Ông Tơ hay Nguyệt Lão … có xuất xứ như sau :

Nguyệt Lão và Vi Cố

        Theo Tục U Quái Lục của Lý Phục Ngôn đời Đường 唐朝文学家李复言所著的《续玄怪录 : Vào năm Đường Trinh Quan thứ hai (638), đất Đỗ Lăng có thư sinh Vi Cố韋固, con nhà thế gia vọng tộc. Cha mẹ mất sơm, nên Cố đi du học bốn phương, vừa để học tập cầu tiến vừa để tìm kiếm hôn nhân. Khi đến Tống Thành, có người mai mối cho Vi Cố cưới con gái của quan tiền nhiệm huyện Thanh Hà là Tư Mã Phan làm vợ. Hẹn rằng sáng sớm hôm rằm sẽ gặp người mai mối ở trước cửa chùa Long Hưng Tự ở Nam Điếm để nói chuyện.

        Đến hẹn, Vi Cố vì nóng lòng với chuyện hôn nhân nên đêm đó không ngủ được. Trời chưa sáng mà đã lần mò đến trước cửa chùa. Bỗng chàng trông thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tiên phong đạo cốt ngồi trên bậc tam cấp trước cửa chùa đang giở xem một quyển sách. Hiếu kỳ chàng bèn đi tới ghé mắt nhìn vào, thì ngạc nhiên làm sao, trên sách là loại chữ rất đặc biệt không sao đọc được. Chàng bèn khẩn khoản hỏi thăm ông lão, thì được ông lão cho biết đó không phải là chữ của nhân gian, và bản thân ông cũng không phải là người của nhân gian nữa. Hiếu kỳ và thích thú, Vi Cố hỏi trong sách ghi chép những gì, thì ông lão cho biết đó là sách ghi chép tất cả những cuộc hôn nhân của trai gái trên đời nầy. Đoạn ông lấy ra một cuộn chỉ đỏ và giải thích rằng, khi ông đã buộc chỉ đỏ nầy vào chân của cặp trai gái nào rồi, thì dù cho có quan san cách trở hay thù oán lẫn nhau gì gì đi nữa, thì rốt cuộc cũng sẽ thành vợ thành chồng với nhau mà thôi.

        Trong lúc đang tìm kiếm hôn nhân, Vi Cố bèn hỏi ông lão xem có biết mình chừng nào kết hôn và vị hôn thê của mình là ai không ? Ông lão bèn lật sách ra xem rồi nói rằng : Vợ của Vi Cố năm nay mới có ba tuổi và phải mười bốn năm sau thì hai người mới kết hôn được. Đang lúc nóng lòng muốn cưới vợ, nghe ông lão nói thế, Vi Cố nản qúa bèn hỏi tới rằng : “ Vậy chớ bây giờ vợ tôi đang ở đâu ?”. Ông lão đáp là : “ Vợ của cậu đang ở tại đây, ở phía bắc của Nam Điếm nầy, đang do một người đàn bà bán cải trông nom. Cậu đừng nóng ruột, trời sáng thì sẽ gặp mặt thôi !”

Nguyệt Lão và Vi Cố

        Khi trời đã sáng hẵn rồi, mà người mai mối ước hẹn với Vi Cố cũng không thấy tới. Ông lão ngồi dưới trăng cũng cất sách vào bọc. Đoạn đứng dậy bảo Vi Cố đi theo ông ta vào chợ. Khi đến hàng cải, thấy có người đàn bà một mắt tay đang ẵm một đứa bé mũi dãi thò lò, đang mua cải. Ông lão bèn chỉ vào cô bé gái bảo : “Đây là vợ cậu đó !”. Vi Cố nghe xong cả giận nói : “ Nếu lời nói của ông không sai, thì tôi sẽ giết con bé nầy !”. Ông lão cười bảo : “Đây là mạng số đã an bày, e rằng cậu sẽ không giết nổi cô ấy đâu !”. Nói đoạn, ông lão quay lưng bỏ đi mất.

        Vi Cố là con nhà thế gia vọng tộc, cho là ông lão cố ý làm nhục mình, nên khi về đến nhà trọ, bèn đưa một con dao nhỏ cho một gia đồng, bảo ra chợ đâm chết con bé gái của người đàn bà một mắt. Trong thời buổi phong kiến, thì việc con nhà quyền thế, cậy quyền cậy thế để giết hại người nghèo cũng là chuyện thường tình, còn các đầy tớ do chủ nuôi thì cứ sai đâu đánh đó, nhắm mắt làm càng. Tuy nhiên, mạng người hệ trọng, giữa chợ giữa búa lại là lúc ban ngày ban mặt mà dám giết người giữa chợ thì cũng không phải là chuyện tầm thường. Nên khi ra đến chợ, tên gia đồng lừa thế đâm đứa bé một nhát rồi bỏ chạy trối chết. Khi về đến nhà trọ Vu Hựu hỏi kết qủa thế nào. Tên gia đồng bảo là vì có người đàn bà che chở, nhưng vẫn đâm trúng một nhát vào đứa bé, còn sống chết ra sao thì chưa biết !

        Sau vụ om sòm ngoài chợ, Vu Hựu cũng hối hận cho sự nóng giận bồng bột của mình, nên bỏ đi nơi khác. Những năm sau đó chàng tiếp tục tìm người hôn phối khắp nơi để cầu hôn, nhưng đều thất bại, cộng thêm mấy lần thi rớt, công danh không thành, hôn phối không xong, gia cảnh ngày một khốn khó. Cuối cùng, chàng đành phải dẹp lòng tự ái tự trọng để xin một chức phụ ấm của cha để lại : làm Tham Quân cho xứ Tương Châu. Lúc bấy giờ chàng đã ngoài ba mươi tuổi và vẫn còn độc thân trơ trọi có một mình.

        Thứ sử Tương Châu là Vương Thái thấy chàng tướng mạo đoan trang, lại có văn tài, giao cho chàng kiêm nhiệm luôn về tư pháp ty của địa phương, chàng đều hoàn thành thật xuất sắc. Thấy chàng đã ngoài ba mươi mà chưa thành gia lập thất, nên Vương bèn gả con gái út cho chàng làm vợ. Cầu hôn suốt mười mấy năm trời đều thất bại, bỗng dưng được vợ, lại là con gái cưng của thượng cấp, Vi Cố vui mừng quá đổi.

Vi Cố cưới vợ

        Đêm động phòng hoa chúc, thấy cô dâu Vương Thị chỉ khoảng mười bảy mười tám tuổi, xinh đẹp vô cùng, lại theo thời trang đính một hoa vàng ở giữa đôi mày trông càng xinh xắn kiểu dáng vô cùng. Vi Cố rất thỏa mãn và hạnh phúc với cô vợ trẻ đẹp này. Nhưng không biết vì sao đóa hoa vàng làm dáng ở giữa mày, cả khi đi ngủ đi tắm nàng cũng không chịu mở ra, khiến Vi Cố vô cùng thắc mắc.

        Một hôm, khi vợ chồng đang trò chuyện thân mật với nhau, chàng mới thừa cơ hỏi rõ nguyên do. Nàng bèn cười mà đáp rằng : “Đó chẳng qua là tính thích làm đẹp của phái nữ, muốn giữ cho đẹp mà thôi !” Đoạn kể cho chàng nghe về lai lịch của mình. Thì ra, nàng không phải là con ruột của Vương Thứ Sử, chỉ là cháu gọi bằng chú mà thôi. Lúc nhỏ vì trên đường đi làm quan xa, cha nàng bị bệnh mất sớm, chẳng bao lâu mẹ cũng buồn rầu mà mất theo. Lúc đó nàng chỉ mới ba tuổi, phải sống nương nhờ vào bà vú nuôi, trồng cải ở mảnh đất sau nhà, nên mỗi ngày phải ra chợ bán cải cho bạn hàng. Một hôm không biết vì cớ gì có một kẻ côn đồ cầm dao định đâm nàng chết, may mà bà vú nhanh mắt tránh sang một bên, nên chỉ sướt qua giữa chân mày, vì thế mà nàng phải đính một đóa hoa vàng để che đi cái thẹo còn để lại. Sau đó chú nàng là Vương Thái tìm đến đem nàng về nuôi nấng và nhận làm con nuôi.

        Vi Cố nghe xong cả kinh, mồ hôi ra ướt cả mình, hỏi lại rằng : “ Có phải bà vú của nàng là người đàn bà chỉ có một mắt hay không ?” Vương Thị cũng rất ngạc nhiên mà hỏi lại rằng : “ Sao chàng lại biết ?!”. Đến nước nầy, Vi Cố bèn kể lại chuyện Nguyệt Lão là Ông gìa dưới trăng đã định sẵn hôn nhân của hai vợ chồng cho nàng nghe. Vương Thị cũng vô cùng cảm khái cho cuộc hôn nhân tiền định nầy, vì thế mà vợ chồng càng yêu thương khắn khít nhau hơn là những cặp vợ chồng thường khác.

        Vi Cố vì hưởng phụ ấm mà được chức quan nhỏ, nhưng nhờ gia đình bên vợ nâng đở, nên đường hoạn lộ cũng hanh thông. Sau nhờ con trai trưởng là Vi Cổn bình loạn có công, được phong làm Thái Thú Nhạn Môn Quan, lại được vua ban hàm Tướng Quân, mẹ là Vương Thị cũng được phong hàm Thái Nguyên Quận Thái Phu Nhân. Vì thế, mà câu chuyện Nguyệt Lão ở Nam Điếm của Tống thành ngày xưa được nhân gian truyền tụng và nhắc nhở. Huyện lệnh Tống Thành bèn đổi Nam Điếm thành Định Hôn Điếm定婚店là nơi Định đoạt Hôn Nhân của người thế gian, đồng thời cũng cho xây miếu để thờ phượng Ông Già Dưới Trăng, gọi là Nguyệt Lão Miếu月老廟.

Nguyệt Hạ Lão Nhân Miếu

        Ngày nay, khắp nơi đều có miếu thờ Nguyệt Lão, nếu không thì cũng có bàn thờ Nguyệt Lão được thờ chung với các vị thần khác ở tất cả các miếu. Riêng ở Trung Hoa thì miếu thờ Nguyệt Lão có ở khắp nơi trong nước, nhưng nổi tiếng nhất là Nguyệt Lão Miếu ở Hàng Châu, không phải vì nó đẹp và linh thiêng hơn các nơi khác mà vì nó có nét cổ kính và nhất là đôi câu đối bất hủ ở hai bên cổng miếu không biết do danh sĩ nào đã làm ra :
        Nguyện thiên hạ hữu tình nhân chung thành liễu quyến thuộc,
        願 天 下 有 情 人 终 成 了 眷 屬,
        Thị tam sanh chú định sự mạc thác qúa nhân duyên !
        是 三 生 註 定 事 莫 錯 過 良 緣。
có nghĩa : 
        Mong cho tất cả tình nhân trong thiên hạ, đều được nên gia thất,
        Là chuyện tiền định từ ba kiếp trước, đừng để lở mất duyên lành !
rất bình dân, rất nên thơ mà cũng rất thực tế, rất thiệt tình !

Tượng Nguyệt Lão

        Còn một chuyện rất mỉa mai đến buồn cười là : Nguyệt Lão ở Trung Hoa là Ông Gíà Dưới Trăng lẻ loi đơn độc có một mình. Mặc dù chuyên xe tơ kết tóc cho người đời nên duyên chồng vợ với nhau, nhưng sang qua Việt Nam, có thể dân ta thấy tội nghiệp cho ông suốt đời chỉ mai mối cho người khác còn mình thì vẫn lẻ loi, và theo quan niệm của người Việt Nam ta, có “Ông” thì phải có “Bà”, nên mới “cưới” cho ông một “ Bà Nguyệt “ nữa, thành một cặp “Ông Tơ Bà Nguyệt”, và thành ngữ “Ông Tơ Bà Nguyệt” chỉ có trong ngôn ngữ và văn chương Việt Nam ta mà thôi, chớ ở bên Tàu thì “Ông Tơ” là Nguyệt Lão vẫn chỉ trơ trọi có một mình, không biết chuyện trai gái là gì cả, nên mới bị nàng Cung phi của Nguyễn Gia Thiều bỡn cợt:
        Tay NGUYỆT LÃO khờ sao có một
        Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
        Cái đêm hôm ấy đêm gì?
        Bóng gương lồng bóng đồ mi trập trùng.
  
        Đỗ Chiêu Đức