02 tháng 8 2019

Ngày tháng phôi pha

<D.564><Thời Tiết-Khí Hậu>



NGÀY THÁNG PHÔI PHA

Đã mất đi rồi kỷ niệm xanh
Giờ đang níu giữ lệ di hành
Trò hư ảo dẫn màn chăn chiếu
Lẽ hẩm hiu cài mộng yến anh
Trỗi khúc an nhàn nung lửa vẹn
Gìn câu hạnh phúc chuyển tâm thành
Đời trôi vội vả mùa thao thức
Tiễn ánh dương tà lẳng lặng canh.

Mai Thắng
190716

★ Bài xướng của Nguyệt Lê (4928)

TÌNH PHÔI PHA

Xa rồi kỷ niệm thuở ngày xanh
Gót nhỏ đường khuya bước độc hành
Một chiếc khăn hồng chôn lấp mộ
Đôi dòng lá thắm gởi về anh
Đàn xưa nhạc khúc hòa đâu vẹn
Mộng cũ tình thơ kết chửa thành
Trải bấy nhiêu mùa đi vội vã
Nghe sầu ứ đọng tủi mòn canh.

Nguyetle
14/7/2019

Lời Nhắn Nhủ

<D.563~Thơ Vui>



LỜI NHẮN NHỦ

Mai này nếu chẳng gặp thằng ta
Nhỏ chớ đừng than đẫm lệ nhòa
Cảnh cũ êm đềm thôi khuấy động
Hiên buồn nhũn nhặn bước dần xa
Kiêm toàn kỷ niệm tôn mầm sống
Phụng dưỡng lòng yêu phủ mái nhà
Dạo khúc hoàng hôn nhàn tản trỗi
Khung trời đượm mãi bản tình ca.

Mai Thắng – 190716

--------------- 

★ Bài xướng của Phương Hà (Sông Thu)

NHẮN NHỦ

(Thay lời một người)

Nếu một ngày kia không có ta
Xin em đừng khóc mắt mi nhòa
Chớ đau buồn mãi, thân tiều tuy
Tránh tiếc thương hoài, dạ xót xa
Kỷ niệm hãy đưa vào hội họa
Tình yêu đem gởi ở thi ca
Chuyển qua nốt nhạc, lời tâm sự
Vẫn thấy chung đôi dưới mái nhà.

Sông Thu
( 11/07/2019)

★ Bài họa của No Đinh Văn (Đinh Hoàng Nhân)

LÒNG TIN

Chắc sẽ tương phùng gặp kẻ ta
Tình kia nghĩa ấy chẳng phai nhoà
Do thề thắt vẹn niềm thương cũ
Bởi hẹn đan tròn nỗi nhớ xa
Thiếp đợi duyên nồng canh giữ cửa
Chàng mong tổ ấm nguyện xây nhà
Tuy nghèo hạnh phúc trào dâng mãi
Dẫu khổ nhưng đời rộn tiếng ca

Đinh Hoàng Nhân

★ Bài họa của Dung Nguyên

LẶNG LẼ HOÀNG HÔN

Lối cũ nghiêng chiều chỉ một ta
Hoàng hôn đã nhạt nắng vương nhòa
Hoa lồng nỗi nhớ êm đường nhỏ
Lá rủ sương tràn đẹp ngõ xa
Nhẹ nhõm hương đùa bên cửa liếp
Đìu hiu gió thoảng cạnh hiên nhà
Tìm nhau tiếng vạc mơ màng trỗi
Dế khảy cung đàn lặng lẽ ca…

25/7/2019
DUNG NGUYÊN

★ Bài họa của Mộng Liên

TRĨU NẶNG TÌNH QUÊ

(NĐT, LTVT, NTVV, BVĐÂ)

Một chốn âm thầm chỉ mỗi ta
Tình quê lắng đọng buổi sương nhòa
Phong trần rũ bước chiều nghiêng lả
Gió bụi phai màu nẻo đã xa
Vẫn thoảng mùi hương nồng gốc rạ
Còn thương vạt áo cũ bên nhà
Thu về quạnh quẽ cho vàng lá
Ảm đạm khung trời lỡ khúc ca

Mộng Liên Lynn Phan

Giấc mộng đêm thu

<D.562><Vần Thu Cảm> 



GIẤC MỘNG ĐÊM THU

Ảnh dạo lên thềm khẽ xuyến xao
Hằng Nga tản bước tự khi nào
Chìa tay khảy tấu hòa âm điệu
Rộn cảnh say lần trữ mắt sao
Quãng mộng tơ tình thêu vá cảm
Dòng thơ nhã nhặn chảy tuôn dào
Mơ màng giấc điệp cài mê tỉnh
Trót thả linh hồn lạc cõi nao.

Mai Thắng – 190715

★ Bài xướng của Dung Nguyên

GIẤC THU

Êm đềm bóng nguyệt để lòng xao
Muốn thỉnh Hằng Nga tận cõi nào
Mượn áng thơ đường say giữ cảnh
Gieo vần lục bát thỏa cùng sao
Hoài thương quãng mộng tình chan chứa
Mãi gửi lời yêu gió dạt dào
Trở giấc thu về đêm lặng lẽ
Mơ màng gác điệp xõa hồn nao...

21/7/2019
DUNG NGUYÊN

15 tháng 7 2019

Nỗi nhớ niềm yêu

<D.561><Cảm Xúc>



NỖI NHỚ NIỀM YÊU

Dường bao thế sự diễn quên cười
Với những xem thường vẻ đẹp tươi
Đã cảm niềm vui chừng có một
Mà vương nỗi khó vọt lên mười
Nguồn tư tưởng dệt bâu giằng xé
Nếp tự do tìm phải giũa bươi
Lúc trẻ cuồng mê lời vỗ biện
Già đau khổ lụy kiếp con người.

Mai Thắng – 190713

------------- 

♠ Bài xướng của No Đinh Văn

NỖI NHỚ NGƯỜI YÊU

Đã bốn ngày qua chẳng tiếng cười
Cho dù cảnh đẹp lá cành tươi
Mà lưu đến não niềm vui một
Lại vấn vào thân nỗi khổ mười
Chỉ trách xuân đời nay mấy chục
Hay hờn tuổi kiếp đã vài mươi
Nhìn sơ cứ ngỡ thời non trẻ
Đổ lệ đìu hiu tưởng nhớ người

No Đinh Văn

Giây phút chạnh lòng

<D.560><Cảm Xúc>



GIÂY PHÚT CHẠNH LÒNG

Ghe tàu đỗ bến chập chùng xa
Những chuyến về đi mộng hải hà
Cuộc bá đồ gieo ngầm nhiễu cản
Mưu quyền thế định phủ dần qua
Nghìn năm dẫn chiếu lời gai ngạnh
Chính sự bày phơi bẫy thảm ngà
Đã hiểu muôn ngàn cơ giáng họa
Thương tình thiện chúng giữ đời ta.

Mai Thắng – 190713

---------------------- 

♠ Bài xướng của No Đinh Văn (Đinh Hoàng Nhân)

CHẠNH LÒNG

Ngắm dãy ghe tàu tận biển xa
Ngàn tâm sự lớn tựa sơn hà
Bao lời tủi hạnh dần trôi tới
Lắm chuyện u sầu sắp trải qua
Dẫu cảnh tình kia xoè dáng ngọc
Dù tranh mộng ấy toả thân ngà
Sao lòng trổi dậy niềm chua xót
Vẫn NHỚ một người chẳng nhớ ta

No Đinh Văn

Bốn Bồ Chữ

<C.041~Giai thoại văn chương> 
Đề tài: BỐN BỒ CHỮ - Tạ Linh Vận & Cao Bá Quát)
Đỗ Chiêu Đức sưu tầm

 

野旷沙岸净,        Dã khoáng sa ngạn tịnh, 
天高秋月明.        Thiên cao thu nguyệt minh.

có nghĩa :
Đồng không bãi cát mênh mông,
Trời thu cao vút trăng lồng bóng gương.

        Đó là một trong những câu thơ tả cảnh nổi tiếng của Tạ Linh Vận 謝靈運 (385-433), người đời Đông Tấn ở đất Cối Kê, thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay. Ông nguyên là cháu nội của danh tướng Tạ Huyền 謝玄, tiểu tự là Khách, nên người đời gọi là Tạ Khách, lại được hưởng tước Khang Lạc Công, nên còn được gọi là Tạ Khang Lạc. Ông là nhà thơ khai sáng ra phái Sơn Thủy Thi 山水詩, chủ yếu sáng tác thơ tả về núi non sông nước của đời Lưu Tống vào thời Nam Bắc Triều. Sơn Thủy Thi là một trường phái lớn của văn học sử thi ca Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến đời Đường sau nầy với các thi nhân lớn như Lý Bạch, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên... Chúa nhà Tống lúc bấy giờ là Lưu Dụ, nên gọi thời nầy là Lưu Tống, bề ngoài thì như xem trọng nhà họ Tạ, nhưng thực tế thì dần dần cắt bớt quyền hành đi, nên Tạ Linh Vận không còn được trọng vọng như trước. Thất ý trên trường chính trị, nên Tạ gởi gắm tâm sự vào tư tưởng Lão Trang qua thơ sông núi. Do bất đắc chí vì tài hoa xuất chúng, nên Tạ luôn tỏ ra khinh thế ngạo vật, cho mình là tài giỏi hơn cả thiên hạ. Tạ đã từng nói là : "Nếu như tất cả tài hoa trong thiên hạ là một thạch (gồm có 10 đấu), thì Tào Tử Kiện (tức Tào Thực, con trai thứ của Tào Tháo, rất giỏi về văn thơ) giữ hết 8 đấu rồi, ta giữ một đấu, còn một đấu là của tất cả những người trong thiên hạ". Câu nói nầy nghe ra có vẻ như là tôn sùng Tào Thực, thực ra là đang xem thường thiên hạ, vì cho là cả thiên hạ cộng lại mới bằng được mình ! Do tánh khí và thái độ cao ngạo, nên Tạ Linh Vận làm mất lòng hết các đồng liêu và quyền thần lúc bấy giờ. Cuối cùng, bị biếm đến Quảng châu và chết ở nơi đó khi mới có 49 tuổi mà thôi.

        Vì câu nói của Tạ Linh Vận, nên hình thành một thành ngữ thông dụng trong tiếng Hoa là : TÀI CAO BÁT ĐẤU 才高八斗 hay BÁT ĐẤU CHI TÀI 八斗之才 để chỉ những người tài hoa xuất chúng, vượt trôi hơn hẵn những người khác. Thi Tiên Lý Bạch trong bài tự Đào Lý Viên cũng phải hạ câu: 
Ngô nhân vịnh ca, độc tàm Khang Lạc   吾人詠歌,獨慚康樂, có nghĩa: Chúng ta ngâm vịnh ngày hôm nay, chỉ thẹn riêng với ông Khang Lạc mà thôi. (Khang Lạc tức Khang Lạc Công chỉ Tạ Linh Vận đó).


Tào Thực 8 đấu, Tạ Linh Vận 1 đấu, Thiên hạ 1 đấu. 

        Trong văn học sử của ta cũng có một người Tài Cao Bát Đấu nhưng không gặp thời giống như là Tạ Linh Vận vậy, đó chính là ... 

        CAO BÁ QUÁT 高伯适 (1809 – 1855) : 
        Tự là Chu Thần (周臣), hiệu là Mẫn Hiên (敏軒), lại có hiệu là Cúc Đường (菊堂), là quân sư trong cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.
        Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Năm Tân Tỵ (1821), ông thi khảo hạch ở trường thi tỉnh Bắc Ninh lúc đó mới 13 tuổi, nhưng thi Hương (lần đầu) không đỗ. Năm Tân Mão (1831) đời vua Minh Mạng, ông thi Hương đỗ Á Nguyên tại trường thi Hà Nội, nhưng đến khi duyệt quyển, bị Bộ Lễ kiếm cớ xếp xuống cuối bảng xếp ông xuống hạng cuối cùng trong số 20 người đỗ cử nhân. Năm Nhâm Thìn (1832), Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội nhưng không đỗ. Sau đó, ông vào kinh dự thi mấy lần nữa, nhưng lần nào cũng hỏng.
        Năm 1841 đời vua Thiệu Trị, được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử, Cao Bá Quát được triệu vào kinh đô Huế bổ làm Hành tẩu ở bộ Lễ. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, ông được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Thấy một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường quy, ông bàn với bạn đồng sự là Phan Nhạ lấy son hòa với muội đèn chữa lại. Việc bị phát giác, ông bị bắt giam vào ngục Trấn Phủ (ngày 7 tháng 9 âm lịch), rồi chuyển đến ngục Thừa Thiên (21 tháng 1 âm lịch năm Nhâm Dần, 1842). Suốt thời gian dài bị giam cầm, ông thường bị nhục hình tra tấn. Nhưng khi án đưa lên, vua Thiệu Trị đã giảm cho ông từ tội "trảm quyết" xuống tội "giảo giam hậu", tức được giam lại đợi lệnh.
        Sau ba năm bị thải về, Cao Bá Quát nhận được lệnh triệu vào Huế (1847) làm ở Viện Hàm Lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Do không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát đã bị đầy đi làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây cũ). Khoảng cuối năm Canh Tuất (1850) đời vua Tự Đức, Cao Bá Quát lấy cớ về quê chịu tang cha và sau đó xin ở lại nuôi mẹ già rồi xin thôi chức Giáo thụ ở phủ Quốc Oai.
        Khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch năm Giáp Dần 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mùa màng mất sạch, đời sống người nhân dân hết sức cực khổ; Cao Bá Quát bèn vận động một số sĩ phu yêu nước, các thổ hào ở các vùng Quốc Oai, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Lạng Sơn... cùng nhau tôn Lê Duy Cự làm minh chủ chống lại nhà Nguyễn. Cao Bá Quát làm quốc sư, họp với thổ mục Sơn Tây là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Trân dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương, thuộc vùng Sơn Tây chống lại triều đình đương thời.
        Chính sử là thế, cuộc đời lắm gian truân chìm nổi, bất đắc chí như Cao Bá Quát đã than vản trong bài Tài Tử Đa Cùng Phú rằng :

Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướt thướt, 
ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa;
Đèn cỏn con ron chiếc chiếu lôi thôi, 
đêm tịch mịch soi chung vầng trăng tỏ.
Áo Trọng Do bạc phếch, giãi xuân thu cho đượm sắc cần lao;
Cơm Phiếu Mẫu hẩm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.
Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy;
Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ. ...

        Vì tài giỏi, nên theo truyền thuyết dân gian Cao Bá Quát rất cao ngạo, ông từng nói: "
Trong thiên hạ có 4 bồ chữ. Một mình tôi giữ hết 2 bồ. Anh tôi Bá Đạt và bạn tôi Nguyễn văn Siêu giữ một bồ. Còn một bồ phân phát cho thiên hạ"!
        Tương truyền, vì tánh khí cao ngạo nên mọi người đều xa lánh. Một hôm Vua Tự Đức- Ông vua rất giỏi về văn chương - làm được môt đôi câu thơ vừa Hán vừa Nôm rất ngộ nghĩnh đặc biệt, mới đọc khoe với quần thần là :
        Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ,
        Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.

        Quần thần đều trầm trồ khen là độc đáo khác lạ, chỉ có Cao Bá Quát thản nhiên tâu: "Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
        Vua Tự Đức đang hí hửng về hai câu thơ dở Hán dở Nôm độc đáo của mình, không dè lại bị Quát dội một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông ta đã nghĩ ra. Tuy nhiên, nhà vua vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân cho hả giận.
        Cao Bá Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:

Bảo mã tây phương "huếch hoác" lai,
"Huênh hoang" nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ,
Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.
Xuân nhật bất văn sương "lộp bộp",
Thu thiên chỉ kiến vũ "bài nhài".
"Khù khờ" thi tứ đa nhân thức,
"Khệnh khạng" tương lai vấn tú tài.

        Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn vua Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục về tài thi tứ rất nhanh nhẹn và sắc sảo của Quát, nhưng trong bụng cũng không vui...
        Ta thấy, Tạ Linh Vận và Cao Bá Quát đều là những nhân tài hiếm thấy và rất có tài đặc biệt trên đời, nhưng vì hoàn cảnh khốn cùng bức bách, sinh bất phùng thời hình thành tính cách cao ngạo với cuộc đời, thậm chí đến nước làm phản để đến nổi thân bại danh liệt, bị tru di tam tộc như Cao Bá Quát thì thật cũng đáng thông cảm lắm thay !

Đỗ Chiêu Đức sưu tập 
(nguồn internet)

Trở Lại Vùng Quê

<D.559~Tình Quê>



TRỞ LẠI VÙNG QUÊ

Lần theo nẻo hẹp hướng thôn làng
Vẫn rảo qua cầu bắt nhịp ngang
Một lũ chim gù chân cánh khỏe
Vài cô nữ diện áo bông vàng
Thâm trầm điệu sáo len đường thoảng
Lấp lửng câu hò trỗi giọng vang
Những bước đi về trong phẳng lặng
Vùng quê gợi cảm xúc ngơ ngàng

Mai Thắng
190712

♠ Bài xướng của Giang Hoa (Bích Yến)

TRỞ LẠI

Ngược nẻo về qua phía ngõ làng
Quay nhìn ở chỗ bến cầu ngang
Đàn chim lượn ngả nghiêng trời tím
Thiếu nữ ngồi tơ tưởng hạ vàng
Dõi tận bên đồi hoa cỏ úa
Nghe cùng vũ khúc nhịp đàn vang
Buồn xưa bỏ xứ đời phiêu bạt
Trở lại miền quê thấy ngỡ ngàng

11.07.2019
Thơ: Giang Hoa

Thệ Vững Lòng Kham

<D.558~Thơ Vui>



THỆ VỮNG LÒNG KHAM

Khi rằng chửa chết vẫn còn ham
Xướng họa ngầm mê sẽ phải làm
Tưởng vọng mơ màng thân nữ chiếc
Trông vời giục giã khói chiều lam
Niềm tin thảo dược chăm hồi sức
Pháp bảo thần linh giữ chặt ngàm
Khắc khoải quên dần lo tịnh dưỡng
Duyên đời kiến tạo vững lòng kham.

Mai Thắng – 190712

--------------- 

♠ Bài xướng của Ng Mạnh Hoàng

ĐÃ BỆNH

Đã bệnh lâu ngày chẳng có ham
Nồi cơm biết thổi ngại không làm
Ra ngồi vãng cảnh nhìn mây biếc
Lại dẫn du hành thở khói lam
Buổi ấy qua đèo say lộn ngã
Hôm kìa đến vực đổ buồn kham
Bao ngày khấp khởi tha hồ giận
Mãi hận duyên đời bỏ tới nam

05-07-2019 
N.M.H-1886

♠ Bài họa của Hường Xưa

NHỚ MỘT NGƯỜI

Thơ nàng đã chết chẳng còn ham
Xướng họa giờ đây nẫu nản làm
Dõi lại hình xưa buồn vẻ biếc
Ươm từng kỷ niệm chán màu lam
Người gieo mấy nẻo sầu muôn ngã
Kẻ nhuộm bao lần nhớ mỗi Nam
Thổn thức đêm dài tim mãi giận
Đâu ngờ bão xoáy cả đời kham

Hường Xưa

Kết Nạp Chân Tình

<D.557~Xã Hội> 



KẾT NẠP CHÂN TÌNH

Người ta nhỏ nhẹ nói chung lòng
Thể hiện nhu mì dỗ bướm ong
Vẻ mặt ôn tồn say giễu bóng
Bàn tay hóm hỉnh kẹp ôm bòng
Chèn lơi giữa hội đâu đành hỏng
Giữ chặt trong mình ắt phải cong
Dưỡng nét chân tình luôn bảo trọng
Ngầm khuyên tránh lạc chữ a tòng.

Mai Thắng 
190711


14 tháng 7 2019

Thảo Khúc Tình Thơ

<D.556~Xã Hội> 



THẢO KHÚC TÌNH THƠ

(Thtk – gcđ)

AI dành thảo vội khúc tình thơ
DÕI nhịp thời gian phả ánh mờ
LỐI ngỏ trăng già/ êm nhã nhạc
XƯA màu áo/ chỉ quãng đường tơ
BUỒN lây lất đọng/ vòm xa thẳm
NẺO vắng chùng/ đau ngã lật lờ
MỘNG chẳng đi cùng xui vẫn nhớ
TA VỀ BẾN CŨ VỌNG CHIỀU MƠ

Mai Thắng – 190709

♣ Bài xướng của Hạnh Liên (Mộng Liên)

LỐI CŨ TÌNH THƠ

(THTK - NĐT - GCĐ)

AI ngồi xếp lại những vần thơ
DÕI bóng thời gian phủ bụi mờ
LỐI sỏi êm đềm hôm gặp gỡ
XƯA hờn dỗi trắc ẩn đường tơ
BUỒN hoen ngấn lệ lòng trăn trở
NẺO hẹn hò mây nước lững lờ
MỘNG tưởng nên sầu ngân trỗi nhớ
TA VỀ BẾN CŨ VỌNG CHIỀU MƠ

Hạnh Liên

♣ Bài đáp họa của Hạnh Liên

LẠNH ÁNH TRĂNG SẦU

(THTK - NĐT - GCĐ)

AI còn trắc ẩn dỗi tình thơ
DÕI lá vàng rơi cảnh nhạt mờ
LỐI phủ trăng sầu mây rạn vỡ
XƯA ngần ngại phím lỡ chùng tơ
BUỒN thân lữ khách hờn duyên nợ
NẺO giã từ sương khói lặng lờ
MỘNG ảo nên chìm sâu nỗi nhớ
TA VỀ BẾN CŨ VỌNG CHIỀU MƠ

Nước Chảy Đá Mòn

<C.040~Điển tích văn học>
Đề tài: NƯỚC CHẢY ĐÁ MÒN  
(Lý Bạch và Vũ Tuấn Chiêu)
Đỗ Chiêu Đức sưu tầm


君不見; 
黃河之水天上來 
奔流到海不復回.” 

Quân bất kiến 
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai 
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi 
... 
        Làm chi cho mệt một đời !
        Đó là những câu kết của Cao Bá Quát trong bài hát nói "Uống Rượu Tiêu Sầu" mà ông đã mượn ý trong bài thơ nổi tiếng "Tương Tiến Tửu 將進酒 " của thi tiên Lý Bạch. Để viết được những câu thơ bất hũ như trên, Lý Bạch cũng đã từng trải qua thời niên thiếu học tập vất vả và trãi qua nhiều gian nan trắc trở. Mời đọc qúa trình học tập và rèn luyện của ông sau đây sẽ rõ:

        LÝ BẠCH (701-761) tự là Thái Bạch, tương truyền khi có thai ông, bà mẹ đã nằm mơ thấy sao Trường Canh rơi vào bụng mà sanh ra ông, cho nên mới lấy hiệu là Thái Bạch, vì sao Trường Canh còn có tên là Thái Bạch Kim Tinh.

        Lý Bạch con của Lý Khách 李客, một thương gia có hàm dưỡng văn hóa cao hơn những con buôn bình thường, nên dạy dỗ con cháu rất nghiêm khắc. Lý Bạch là con út thứ 12 của ông, từ nhỏ đã tỏ ra rất thông minh lanh lợi, lại siêng năng học hành, nên ông rất thương yêu và để tâm bồi dưỡng. Khi Lý Bạch mới 5 tuổi đầu đã được ông chỉ điểm cho đọc các từ phú của Tư Mã Tương Như đời Hán. Ông thường nhắn nhủ Lý Bạch là phải cố gắng làm rạng danh nhà họ Lý và phải rèn luyện sao cho có tài như là Tư mã Tương Như vậy. Lý Bạch luôn khắc ghi lời cha dạy bảo và lập chí quyết tâm học hành sao cho hơn cả Tư Mã Tương Như nữa thì mới cam lòng.



        Năm Lý Bạch 10 tuổi, đang theo học văn chương từ phú với thầy ở Tượng Nhĩ sơn thuộc Mi Châu. Một hôm Lý trốn học đi chơi, khi đi ngang qua một khe suối, thấy có một bà lão đang mài một cây chày bằng sắt trên đá. Lấy làm lạ, Lý bèn hỏi bà ta mài cây sắt để làm chi vậy. Bà lão bèn đáp là mài để làm cây kim may đồ và thêu hoa. Lý rất ngạc nhiên nói với bà lão rằng :" Cây sắt to thế kia, bà phải mài đến bao lâu mới thành cây kim được ?". Bà lão bèn đáp rằng :" Hôm nay ta mài, ngày mai ta mài, ngày mốt ngày kia ta cũng mài, cây sắt sẽ ngày một nhỏ dần đi, ắt có một ngày sẽ trở thành cây kim cho ta may vá và thêu thùa được !" Lý Bạch nghe xong chưng hửng, rồi chợt ngộ ra rằng : " Cây chày sắt bị mài hằng ngày sẽ trở thành cây kim, còn ta nếu không chịu cố gắng học tập hằng ngày thì làm sao mà thành tài cho được ?!". Nghĩ đoạn, Lý bèn quay trở lại trường tiếp tục học hành.

  Đến năm 25 tuổi, thì Lý Bạch đã trở thành một thanh niên văn võ song toàn. Với một túi thơ bầu rượu và một thanh kiếm báu trên lưng, ông đi chu du khắp chốn cho thỏa chí tang bồng hồ thỉ và vì thế mà ông sáng tác và để lại khắp nơi những văn thơ bất hũ. Được người đời xưng tụng là Thi Tiên như bốn câu thơ sau đây của Thi Thánh Đỗ Phủ viết về ông:

Hán ngữ:
        李白斗酒詩百篇,
        長安市上酒家眠,
        天子呼來不上船,
        自稱臣是酒中仙。
        
âm Hán Việt: 
        Lý Bạch đấu tửu thi bách thiên
        Trường An thị thượng tửu gia miên
        Thiên tử hô lai bất thượng thuyền
        Tự xưng thần thị tửu trung tiên!
 
có nghĩa :
        Lý Bạch đấu rượu thơ trăm,
        Trường An quán chợ hay nằm ngủ quên.
        Lệnh vua gọi chẳng lên thuyền,
        Tự xưng thần chính là tiên trong đời !

    
    Đó chính là Thi Tiên Lý Bạch của buổi Thịnh Đường, vì được câu nói của bà lão: "Có công mài sắt có ngày nên kim" mà quyết chí dùi mài kinh sử, trở thành Thi Tiên nổi tiếng giỏi thơ và tiếng thơm còn được truyền tụng cho đến ngày hôm nay.



        Nhìn về sử Việt Nam ta thì có ông Trạng Nguyên nhờ câu nói của vợ là "Nước chảy đá mòn" mà phấn chí học hành để được đỗ Trạng. Đó chính là ... 

        VŨ TUẤN CHIÊU  武濬昭 (1426 - ?) nguyên quán xã Cổ Liễu, huyện Tây Chân (nay thuộc xã Nam Hùng huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), phủ Phụng Thiên, trú quán phường Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức (nay thuộc xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội). Ông đỗ đầu trong số ba đệ nhất giáp Tiến Sĩ cập đệ (tức Trạng Nguyên) khoa thi Hồng Đức năm thứ 6 (1475). Ông làm quan đến Tả Thị lang Bộ Lại.

        Theo sách Sử Việt "những bất ngờ lý thú": Vũ Tuấn Chiêu mồ côi cha từ nhỏ. Do cuộc sống khó khăn, mẹ của Vũ Tuấn Chiêu phải đưa con về quê ngoại ở ngoại thành Thăng Long. Mấy năm sau, mẹ qua đời, Vũ Tuấn Chiêu lại trở về quê nội làm ăn sinh sống.



        Tại đây, ông kết hôn với Nguyễn Thị Chìa. Là người nết na, bà Chìa không quản vất vả, chăm chỉ ruộng đồng, dệt vải kéo tơ, vừa phụng dưỡng cha già, vừa nuôi chồng ăn học. Thế nhưng, Vũ Tuấn Chiêu tuy mặt mũi khôi ngô, nhưng học hành lại rất tối dạ. Hơn 10 năm đèn sách, đường học vấn của ông vẫn không tiến bộ. Trong một lần bà Chìa gánh gạo đến cho chồng, thầy giáo đã gọi người vợ lại để trả chồng về. Thầy bảo rằng: "Trò Chiêu tuổi đã lớn, học hành lại không tấn tới, nay ta cho về giúp con lo việc nhà, việc đồng áng cho đỡ bề vất vả". Hết lời cầu xin, nhưng thầy vẫn không đổi ý, hai vợ chồng bèn thu xếp quần áo, sách vở về nhà. Khi đến đầu làng, họ dừng chân nghỉ ngơi bên chiếc cầu đá bắt qua nhánh sông nhỏ, thấy cây cột đá chân cầu bị mòn, Vũ Tuấn Chiêu lấy làm ngạc nhiên hỏi vợ.

        Bà Chìa nói rằng: "Nước chảy lâu ngày đã làm mòn những cột đá của cây cầu. Chàng thấy đấy, cột đá là vật cứng rắn, dòng nước mềm nhưng qua năm tháng cứ chảy mãi lâu ngày khiến cho đá cũng phải mòn. Nên làm việc gì nếu có chí, có sự kiên trì, nhẫn nại thì tất sẽ thành công". Nghe lời vợ nói, Vũ Tuấn Chiêu chợt tỉnh ngộ. Ông liền bảo vợ trở về nhà, còn mình mang sách vở, quần áo trở lại nhà thầy đồ xin tiếp tục theo học.

        Thấy học trò quay lại, thầy ngạc nhiên hỏi nguyên nhân. Vũ Tuấn Chiêu đáp rằng: "Nước chảy đá mòn, thưa thầy việc học cũng như vậy, nếu có chí học thì chắc chắn sẽ khá lên. Nay con trở lại trường quyết tâm dùi mài kinh sử, mong một ngày có tên trên bảng vàng; trước là khỏi phụ công ơn dạy dỗ của thầy, sau đền đáp tấm lòng của vợ và cũng để thỏa cái chí của con". Tuy nghe học trò nói một câu đầy khí khái, thầy vẫn không tin lắm. Nhân lúc ngoài trời nổi gió, lác đác mưa rơi, thầy đồ tức cảnh đọc : 
"Lác đác mưa sa làng Hạ Vũ", ... rồi bảo rằng, nếu đối được thì mới cho ở lại tiếp tục học. Câu đối hóc búa ở chỗ chữ "mưa sa" là "hạ vũ 下雨", mà Hạ Vũ 夏禹 lại là tên một làng thuộc Xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nhưng với ý chí cầu học, suy nghĩ một lát, Vũ Tuấn Chiêu bèn đối lại: "Ầm ì sấm động đất Xuân Lôi".

        Câu đối chuẩn và hay qúa, khiến thầy đồ rất hài lòng, vì "mưa sa" đối với "sấm động", còn "HẠ VŨ 夏禹" lại đối với "XUÂN LÔI 春雷" thì không còn gì chỉnh cho bằng, Xuân Lôi lại cũng là tên một làng của huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, cái mới thật là tuyệt diệu ! Nên thầy đồ cho ông ở lại tiếp tục học. Từ đó, Vũ Tuấn Chiêu không ngừng nỗ lực, dốc chí học tập, dần dần sức học tiến bộ hẳn lên.

        Để giúp chồng ăn học, bà Chìa tuy tóc đã hoa râm vẫn một mình chăm con, lo việc ruộng vườn, đều đặn gánh gạo cho chồng ăn học. Đến năm Vũ Tuấn Chiêu gần 50 tuổi, bà qua đời. Sau khi vợ mất, Vũ Tuấn Chiêu một lần nữa rời quê hương, đưa con trở về quê ngoại để tiện việc học hành, chuẩn bị tham gia thi cử.

        Đến khoa thi Ất Mùi (1475) dưới thời vua Lê Thánh Tông, Vũ Tuấn Chiêu đỗ trạng nguyên. Bấy giờ, ông đã gần 50 tuổi, trở thành một trong ba vị Trạng Nguyên già nhất khi đỗ đạt, cùng Nguyễn Đức Lượng (đỗ năm 1514) và Nguyễn Xuân Chính (đỗ năm 1637), đều đã gần 50 tuổi mới thi đậu. Theo tư liệu còn ghi lại tại bia tiến sĩ ở Thăng Long, khoa thi năm đó, rất đông người tham gia nhưng số được chấm đỗ không nhiều. Qua bốn trường lấy trúng cách được 43 người... Khi dâng đọc quyển thi, vua Lê Thánh Tông đã ban cho Vũ Tuấn Chiêu đỗ trạng nguyên nhờ bài thi xuất sắc nhất.



        Bài văn sách thi Đình của Trạng Nguyên Vũ Tuấn Chiêu hiện vẫn được lưu lại trong cuốn gia phả của họ Vũ ở phường Nhật Tân (quận Tây Hồ, Hà Nội). Bài thi gồm 23 trang, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng từ 4 đến 31 chữ. Sau khi đỗ đạt, Vũ Tuấn Chiêu làm quan trải nhiều chức vụ, sau này giữ tới chức Tả Thị lang Bộ Lại, tước Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu. Ông mất năm nào chưa rõ.

        Gương học tập của Lý Bạch dạy cho ta câu :"Có công mài sắt có ngày nên kim", còn gương học tập của Vũ Tuấn Chiêu dạy cho ta câu "Nước chảy đá mòn". Nên ta phải nhớ rằng, ở đời hễ CÓ CHÍ THÌ NÊN, chỉ sợ người không có chí kiên trì mà bỏ dở nửa chừng mà thôi!

Đỗ Chiêu Đức

Gió chở mộng thường

<D.555><Tuổi Lão>



GIÓ CHỞ MỘNG THƯỜNG

Chào em gió chở mộng đan thường
Rảo bước sông hồ tặng viễn hương
Nốt nhạc hoài vang dòng phổ cũ
Lời thơ ẩn vọng khóe môi hường
Trầm ngâm mấy độ vào suy tưởng
Tĩnh tại bao mùa cảm mến thương
Vẫn trải tình chân hòa ước nguyện
Chiều thu nhớ buổi dạo bên đường.

Mai Thắng
190708

♣ Bài xướng của Ngọc Liên

LỜI CỦA GIÓ

Hãy chở giùm em giấc mộng thường
Qua miền kỷ niệm đã mờ hương
Rồi gieo nốt nhạc bên dòng cũ
Lại phổ lời thơ giữa giấy hường
Bến cũng bao mùa ngơ ngẩn đợi
Trăng giờ mấy độ mỏi mòn thương
Tình anh mãi nhẹ dìu cơn gió
Thổi lá chiều thu trải rợp đường.

Ngọc Liên
07.07.19

Giữa buổi thay mùa

<D.554><Thương Hạ Ca> 



GIỮA BUỔI THAY MÙA

Giữa buổi thay mùa lá nhẹ rơi
Từ cao cảnh dợn sắc xanh ngời
Từng cơn nắng đổ khêu đờ đẫn
Những trận mưa vùi hết lả lơi
Dõi hạn tình ngăn ngày xúc cảm
Chờ tin quạ báo kiểng đua mời
Nàng thu tủi phận dầm chan chứa
Nhã khúc ngâu buồn phủ dụ chơi.

Mai Thắng
190707

----------------------------
♣ Bài xướng của Ngọc Ánh NĐLY

RỪNG THU ĐÃ NHUỘM

(nđt, bvđâ)

Giao mùa cảnh sắc não nùng rơi
Gió chuyển đào lan rã nụ ngời
Nhạn thả về xuôi mòn mõi với
Mưa dầm nhỏ giọt khẽ khàng lơi
Say hình dáng Liễu xa vời vợi
Rủ bóng nàng Thu rã rệu mời
Kẻ khách nhàn du tìm dẫn tới
Trong rừng rộn tiếng trẻ đùa chơi

Ngoc Anh Nguoideplongyen

Tự ngẫm

<D.553><Giao Tiếp> 



TỰ NGẪM

Cảm họa đôi điều giễu nét xuân
Cười mơn sức khỏe nhặt khoan dần
Vươn mình sớm hửng xương hòa nhạc
Dưỡng mộng đêm tàn nếp thảo vân
Khắc khoải tình thương dìu đạo nghĩa
Trầm ngâm lý tưởng dệt thông vần
Hèn sang chẳng trách đời nhiên hậu
Giữ niệm chân thành khoản tiếp tân.

Mai Thắng – 190707

♣ Bài xướng của Trường Lưu Thủy

CHÂN DUNG TỰ HỌA

Bề ngoài dáng vẻ vẫn thanh xuân
Nội lực từ lâu đã xuống dần
Sáng sớm vươn mình xương tấu nhạc
Chiều tà bấm chữ mắt giăng vân
Hên nhờ trí óc luôn minh mẫn
Khéo cậy thân phàm giữ nét tân
Sống dẫu cam nghèo nhưng chẳng rách
Đường trần đoạn cuối biết yêu xuân

K T 7/7/17
Trường Lưu Thủy

♣ Bài họa của Dung Nguyên

NỖI NIỀM XUÂN

Ta giờ mới hiểu nỗi niềm xuân
Dẫu tóc hình như bạc điểm dần
Ngõ phú tô vàng khung vẹn cảnh
Câu từ dệt thắm mảnh hồng vân
Vo tròn ái nghĩa thành khuông nhạc
Nhặt nửa vầng trăng dỗ ý vần
Muốn một lần thôi về nẻo cũ
Nơi mà đậm dấu thuở còn tân

DUNG NGUYÊN
08/07/2019

13 tháng 7 2019

Đề Đô Thành Nam Trang - Thôi Hộ

<C.039><Dịch Hán thi> 

ĐỀ ĐÔ THÀNH NAM TRANG - THÔI HỘ (thế kỷ thứ 8)
(Đề tích sở kiến xứ)


★ Nguyên bản 

題都城南莊
去年今日此門中,
人面桃花相映紅;
人面不知何處去,
桃花依舊笑冬風

★ Phiên âm

ĐỀ ĐÔ THÀNH NAM TRANG
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
THÔI HỘ

    * Thôi Hộ 崔護 tự Ân Công 殷功, người Bác Lăng đời Đường (nay là An Bình, Hà Bắc). Ông là một thi nhân đời Trung Đường, đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 12 (796), làm quan đến Lĩnh Nam tiết độ sứ. Thơ ông Toàn Đường thi còn chép 6 bài, trong đó Đề đô thành nam trang được lưu truyền rộng rãi nhất.
 
 Dịch nghĩa

Đề thơ ở vườn phía nam đô thành Trường An
Ngày này năm xưa bên trong cửa
Gương mặt và hoa đào cùng ánh lên sắc hồng
Gương mặt người xưa giờ không biết chốn nào !
Chỉ còn hoa đào như cũ cười với gió đông.

 Dịch thơ

NƠI CŨ GẶP NGƯỜI

- Thất ngôn
Cửa mở năm nào bất chợt trông
Màu hoa sắc mặt ánh tươi hồng
Người đi ẩn dáng phương nào nhỉ
Lặng ngắm hoa đào cợt gió đông

- Lục bát
Năm nào bất chợt nhìn trông
Màu hoa sắc mặt tươi hồng bên nhau
Người đi ẩn dáng phương nao
Giờ đây chỉ sắc hoa đào cợt đông

Mai Thắng
190710

Du lịch Nha Trang

<D.552><Cảnh Biển Trời>



DU LỊCH NHA TRANG

Bài 1. Ra đảo

Trông vời mặt biển lớp trùng vân
Cảnh tượng ngàn khơi dãy suốt ngần
Đảo nhấp nhô nằm phơi lĩnh địa
Sương rờ rẫm bám ẩn đường chân
Lùa đưa gió chuyển dòng xuôi ngộ
Lái đẩy tàu băng ngưỡng vượt dần
Bỡn sóng tươi cười muôn thể trạng
Treo bày ảnh cáp ngỡ đàn ngân

Bài 2. Trò chơi biển

Treo bày ảnh cáp ngỡ đàn ngân
Vượt khoảng vành ôm nét rõ dần
Bãi đẹp trình phơi bờ tắm điểm
Cây hiền kiến tạo chỗ dừng chân
Trên vùng biển rộng trò hăng ngẫu
Giữa cụm trời xanh mảng trắng ngần
Ngạo nghễ hồn nhiên rồi cảm thán
Đông Tàu chiếm ngự cảnh phù vân.

Mai Thắng – 190703



♠ Bài xướng của Liễu Cô Cô

HẢI VÂN QUAN

Đứng giữa lưng trời Động Hải Vân
Nhìn mây cảnh đẹp sắc trong ngần
Hoa rừng đỏ sẫm lay sườn núi
Biển bạc xanh mầu lẫn dưới chân
Dõi đỉnh đèo cao chiều dịu bóng
Vòng quanh ngõ rộng sớm phai dần
Con Tầu gõ nhịp bên triền sóng
Ghẹo liễu trăng cười vẳng gió ngân …

Ghẹo liễu trăng cười vẳng gió ngân …
Hồn lam rạng rỡ nước trong ngần
Mai lồng lẫn cảnh cây rừng núi
Khói tỏa gieo tình bạn vững chân
Lạc giữa hầm xuyên đường trải khắp
Vào cung thạch phá biển xuôi dần
Theo hình bóng cuội ngồi trên đỉnh
Mãi ngắm lưng trời Động Hải Vân

02.07.19.Liễu cô cô



♠ Bài họa của Mộng Liên Lynn Phan

♡ Bài 1: DÕI THẦM

(nđt, gcđ)

Liễu rủ bên dòng nhạt sắc vân
Màn sương lạnh buốt phủ trăng ngần
Đêm huyền ảo, ngõ hồn vương vấn
Dạ vũ quay cuồng, mỏi bước chân
Gió bão thầm khơi, sầu hợp cẩn
Lòng xa vắng, nẻo mộng phai dần
Cho thuyền viễn xứ hoài vô tận
Để mãi đôi bờ tiếng vọng ngân.

♡ Bài 2: DỖI MỘNG

(nđt, gcđ+ltđ)

Để mãi đôi bờ tiếng vọng ngân
Miền thương cõi nhớ thoảng vơi dần
Mưa chiều quạnh vắng, trời u uẩn
Hạ nỉ non, rời rã gót chân
Những tưởng ngày vui hoài bất tận
Ngờ đâu giọt đắng vẫn vô ngần
Cho lòng rũ bỏ niềm vương vấn
Giấc mộng tương phùng gởi dãy vân.

Mộng Liên Lynn Phan

Trên đỉnh tự do

<D.551><Giao Tiếp> 



TRÊN ĐỈNH TỰ DO

Nhủ ngắm canh đời vãn nhẹ tênh
Vài cơn bão động chút dang dềnh
Xuân còn đậm bóng cài dai dẳng
Hạ vẫn xuôi dòng tải váo vênh
Điểm xuyết mây tầng cao đãi ngộ
Chìm tan gió quãng bạo lăn kềnh
Thời gian giũ xóa lời ly biệt
Lữ khách xa rời phận nổi nênh

Mai Thắng – 190701

-----------------------------------
⋆ Bài xướng của Thảo Chương Trần Quốc Việt

Hè nhìn trên đĩnh Olympic

Ngẩng đầu nhìn chóp đỉnh chênh vênh
Vài đám mây trôi nổi dập dềnh
Sáng rỡ sương còn rơi lãng đãng
Chiều tàn tuyết vẫn phủ mông mênh
Trời cao ngan ngát - màu xanh ngắt
Núi biếc mù tăm - cảnh vắng tênh
Cố quốc nghìn trùng xa cách biệt
Bao giờ ly khách hết lênh đênh?

Thảo Chương Trần Quốc Việt
June 26, 2019

-----------------------------
⋆ Bài họa của Lý Đức Huỳnh

MỘT NGƯỜI TỬ TẾ

Ngoại tướng,thoáng nhìn ngỡ váo vênh
Lòng anh tử tế thật dàng dềnh
Trong nhà trí thiện xây nồng ngát
Ngoài ngõ tâm từ đón rộng mênh
Phố mới hân hoan về thắm đượm
Quê nghèo vắng vẻ tiễn buồn tênh
Hoa người phẩm giá mùa dân chủ
Xóa hết bọt bèo phận nổi đênh

Lý Đức Quỳnh

Sinh nhật bạn thơ

<D.550~Thơ Sinh Nhật> 



SINH NHẬT VŨ VĂN THƠ

Vững tạc thâm tình để kết thơ
Ùm vang tiếng động thải văng bờ
Vui lòng gửi gắm hòa tâm sự
Ấp nỗi hô hào thả mộng mơ
Ngọc bảo khoe màu phô sắc hãnh
Trầm hương tỏ liệu xứng duyên chờ
Hồng nhung mở lối niềm thân thiện
Ở lớp hôn hoàng dệt chuỗi tơ.

Mai Thắng – 
190701

♠ Bài xướng của Hường Xưa

CHÚC MỪNG SINH NHẬT Van Tho Vu

(Bất luận)

Ta mừng sinh nhật Vũ Văn Thơ
Chúc đệ niềm trông thỏa mãn ờ
Để những lời yêu tình vẹn nối
Cho từng ý nguyện nghĩa tròn mơ
Gia đình hạnh phúc không hề dở
Bổn phận thời gian chẳng hãi mờ
Cuộc sống an lành tim vẫn mở
Chân thành hữu hảo đẹp dòng tơ

Hường Xưa

29 tháng 6 2019

Thi Hỏng

<D.549~Vịnh Tranh>



THI HỎNG

Đã trượt kỳ thi trở gót về
Gia đình biểu hiện nỗi buồn tê
Thằng em lạ lẫm bày vô cảm
Đứa chị chanh chua giảng nhúng trề
Thất vọng ngầm than lòng mẹ tỏ
Ôm mừng thiện hữu chó vàng vê
Trò chơi đậu rớt thương phần trẻ
Lãnh mọi niềm đau ngấm đủ bề.

Mai Thắng – 190628

♣ Bài họa của Phương Hà

THI TRƯỢT TRỞ VỀ

Ôm sầu thi trượt phải quay về
Không khí trong nhà ngập tái tê
Mẹ thẫn thờ nhìn, đôi mắt lạc
Chị dè bĩu nguýt, cánh môi trề
Thản nhiên, em nhỏ ôm tay me.
Nặng trĩu, lòng riêng khổ tứ bề
Chỉ có chó vàng vui vẻ đón
Ôm mừng cậu chủ, dáng vân vê.

Phương Hà
( 20/06/2019 )

♣ Bài họa của Song Quang

NỔI BUỒN THI RỚT

Mặt buồn rười rượi gắng quay về
Thi rớt trong lòng quá tái tê
Mẹ thấy nảo nề ,bày mắt ướt
Chị nhìn dè bỉu,tỏ môi trề
Thờ ơ em nhỏ không màng ngó
Mừng rỡ chó phèn nhảy xổm vê
Không khí bao trùm như vắng lặng
Trong tâm cậu bé khổ trăm bề

songquang
20190630

------------------------- 

♣ Diễn giải của Hoàng Hải Vân

Một bức tranh, một bài thơ và một triết lý giáo dục

Bức tranh trên đây có tên “Lại điểm 2” của họa sĩ kiêm nhà sư phạm nổi tiếng người Nga Fyodor Pavlovich Reshiotnikov, vẽ năm 1952, hiện được trưng bày tại Bảo tàng mỹ thuật quốc gia Nga, bức tranh còn được đưa vào sách giáo khoa hiện nay của nước này. Một đứa bé bị điểm 2 (điểm kém nhất) về nhà như bị đưa ra phán xét : Chị của nó, một Đội viên thiếu niên tiền phong quàng khăn đỏ nhìn nó như rủa sả. Mẹ nó ngồi buồn rầu thất vọng về con. Em nó nép vào mẹ vô tư cười nhìn nó như một kẻ xa lạ. Nó thì đau buồn tuyệt vọng. Chỉ có con chó là chồm lên ngực nó vui mừng.

Bức tranh là lời cảnh báo : Điểm số ở trường chưa nói được đứa trẻ là giỏi hay kém, nhưng thái độ của gia đình đối với điểm số đó có thể đưa em vào hoang tưởng hay đẩy em xuống tuyệt vọng. Và ta hiểu vì sao trẻ con gắn bó với những con chó hơn là người lớn chúng ta gắn bó.

Ở một phương trời khác, hơn 1000 năm trước, thi hào Bạch Cư Dị viết một bài thơ tương tự, nhưng ở tầm “người lớn” :

LẠC ĐỆ 

Lạc đệ viễn qui lai
Thê tử sắc bất hỷ
Hoàng khuyển độc hữu tình
Đương môn ngọa dao vỹ
(Bạch Cư Dị)

----------------
THI HỎNG

Thi hỏng về đến nơi,
Vợ con mặt không vui,
Chó vàng riêng có tình,
Giữa cửa nằm vẫy đuôi
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Thật là thú vị khi thấy hai con người vĩ đại ở vào hai thời đại cách xa nhau cùng mượn con chó để nói về một triết lý giáo dục làm người. Thứ triết lý không thể nói hết bằng lời nên hai ông phải nói bằng một bức tranh và một bài thơ. Bình luận thêm có lẽ sẽ thừa.

HOÀNG HẢI VÂN

--------------------

♣ Diễn giải của Đỗ Chiêu Đức

Bức tranh rất sống động, bài thơ rất mĩa mai, triết lý rất sâu xa... Nhưng, bài thơ KHÔNG PHẢI của Bạch Cư Dị mà của ĐƯỜNG THANH THẦN 唐青臣 trong TÙY VIÊN THI THOẠI 隨園詩話 của Viên Mai 袁枚(1716-1797)đời nhà Thanh. Nguyên văn như sau :

不第遠歸來     Bất đệ viễn quy lai,
妻子色不喜     Thê tử sắc bất hỉ.
黃犬恰有情     Hoàng khuyển kháp hữu tình,
當門臥搖尾。 Đương môn ngọa dao vĩ.

* Chú thích 

- LẠC ĐỆ 落第 : LẠC là Rơi, Rụng, Rớt... Nên LẠC ĐỆ là Thi Rớt.

- BẤT ĐỆ 不第 : ĐỆ là Thứ Bậc, là Xếp hạng. Nên Bất Đệ là Không được Xếp Hạng là KHÔNG ĐẬU.
- THÊ TỬ 妻子 : là Vợ Con, nhưng chỉ có nghĩa là CON VỢ mà thôi. Vì THÊ TỬ là từ Kép dùng để chỉ Con Vợ, Bà Vợ, Bà Xã...
- KHÁP 恰 : là Phó từ có nghĩa :Vừa vặn, Đúng lúc. Nhưng ở đây KHÁP là Liên Từ là từ Nối dùng để nối một ý bất ngờ hoặc ngược lại, có nghĩa như là LẠI của ta, nên câu thơ "黃犬恰有情 Hoàng khuyển KHÁP hữu tình" có nghĩa : Con chó vàng LẠI có tình cảm (như con người).
- ĐƯƠNG MÔN 當門 : là Ngay trước cửa. Nên câu "當門臥搖尾 Đương môn ngọa dao vĩ. Có nghĩa : " Nằm vẫy đuôi ngay trước cửa !" (để mừng chủ về).

* Diễn Nôm 

Không đậu từ xa về
Sắc mặt vợ ủ ê
Con phèn tình vẫn thế
Vẫy đuôi mừng hả hê!

Đỗ Chiêu Đức

PHONG

<C.038><Điển tích văn học> 
Đề tài: PHONG
Đỗ Chiêu Đức sưu tầm 
 


        PHONG là gió, là sự chuyển động của không khí mang đến sự mát mẻ thoải mái cho mọi người, nên Phong Lưu là sự lưu động của gió làm cho con người thấy dễ chịu hơn, vì thế con người PHONG LƯU 風流 là con người dễ chịu khoáng đạt rộng rãi; cuộc sống Phong Lưu 風流 là cuộc sống khá giả sung túc đầy đủ.

        - Trong bài GIÓ, ta đã biết thần gió có tên là DI, nên gọi là PHONG DI 風姨. Trong văn học cổ của ta gọi là DÌ GIÓ. Xin kể thêm một giai thoại về tích của Dì Gió theo truyền thuyết thần thoại đời Đường: Phong Di 風姨 là Phong Thập Bát Di 封十八姨, là bà dì đứng hàng thứ mười tám. 

        - Theo sách Bác Dị Chí 博异志 , năm Thiên Bảo đời Đường vào một đêm trăng sáng, Thôi Huyền Vi 崔玄微 đi ngắm hoa trong vườn tình cờ gặp được một toán giai nhân cùng hẹn nhau uống rượu, người đẹp mặc đồ xanh là Dương Thị, đồ trắng lá Lý Thị, đồ Hồng là Đào Thị, người đẹp mặc đồ hồng phấn nhỏ nhất là Thạch Thố Thố, cùng với bà dì thứ mười tám nhà họ Phong (Phong Thập Bát Di) uống rượu vui đùa trong vườn. Bà dì Mười tám uống say làm rượu đổ dơ đồ của Thố Thố, nên tiệc rượu chẳng vui mà tàn. Đêm sau lại đến, Thố Thố nói cho Thôi Huyền Vi biết là mọi người đều trú ngụ trong vườn nầy, và thường hay bị các trận gió bất thường làm cho gãy đổ, nên khẩn khoản nhờ Thôi dựng cho một cây phướng ở phía đông vườn để hóa giải tai nạn. Lúc bấy giờ vừa qua tiết Nguyên Đán, Thôi bèn y lời dựng phướng, tối hôm ấy quả có gió đông nổi lên rất mạnh, làm cho cát bay đá chạy, cây cối gãy cành đổ nhánh, nhưng các loài hoa trong vườn thì lại không sao cả. Thôi Huyền Vi mới ngộ ra rằng các người đẹp đều là các loại hoa ở trong vườn. Nàng họ Dương áo xanh là cây dương liễu; nàng Lý Thị áo trắng là cây hoa lý ở trong vườn, nàng họ Đào mặc áo hồng là cây hoa đào và người đẹp nhỏ nhất Thạch Thố Thố là cây lựu bạch, còn Phong Thập Bát Di chính là Thần Gió đó.

Phong Thập Bát Di và Thạch Thố Thố (nàng Lựu)

        - Trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập cuả vua Lê Thánh Tông và Nhị Thập Bát Tú có câu :
         Đêm có ả trăng làm bạn cũ,
         Ngày thì Dì Gió quét bên giường.
        - Trong bài phú Lắm Mối Tối Nằm Không cũng có câu :
         Tối đến thở than cùng nguyệt tỉ,
         Ngày thì năn nỉ với Phong Di.

        Theo thứ tự ABC, sau Phong Di ta có:

        * PHONG ĐÌNH 楓庭 : 
        PHONG ở đây là cây Phong, chớ không phải là Gió. Trong cung điện nhà Hán khi xưa thường hay trồng cây phong trong sân chầu, nên PHONG ĐÌNH hay SÂN PHONG là chỉ trong sân của nhà vua, như trong truyện Nhị Độ Mai :
Bách quan đóng chặt Sân Phong,
Tiếng xe chen ngựa, vẻ lồng cân đai...
hay như :
Thiên ân ban trước Phong Đình,
Ba tuần ngự tửu, hai cành cung hoa.

        * PHONG HẠC 風鶴 :
        Phong Hạc là nói gọn lại của thành ngữ Phong Thanh Hạc Lệ, Thảo Mộc Giai Binh 風聲鶴唳,草木皆兵, có nghĩa là tiếng gió thổi, tiếng hạc kêu, tiếng cỏ cây xào xạc đều ngỡ là binh lính theo tích sau đây : 
        Công Nguyên năm 383, Tiền Tần Vương Phù Kiên sau khi thống nhất một dãy ven sông Hoàng Hà, định tập trung đủ 90 vạn quân sẽ đem quân đánh ụp tiêu diệt nước Đông Tấn, bèn phái em là Phù Dung làm tiên phong chiếm lấy thành Thọ Dương. Phù Dung đánh lấy thành một cách dễ dàng, biết Đông Tấn binh yếu lại thiếu lương thực, mới đề nghị với Phù Kiên nhanh chóng đánh chiếm Đông Tấn. Phù kiên không đợi binh lực tập trung đầy đủ, lập tức đem quân tấn công Đông Tấn ngay.
        Tướng Đông Tấn là Tạ Thạch biết được binh lực của Tần chưa tập trung đầy đủ, bèn dùng kế khích tướng thách Phù Kiên nếu muốn phân cao thấp thì hãy lui binh một dặm, mình sẽ đem binh qua sông Phì Thủy quyết một trận hơn thua, bằng nếu sợ thua thì hãy đầu hàng ngay đi. Phù Kiên cả giận, định giả vờ lui binh, đợi cho binh Tấn qua sông nửa chừng sẽ quay lại đón đánh một trận cho tan tác binh nhung. Nào ngờ, lòng binh Tần đã chán nản vì chinh chiến lâu ngày, nay thấy sứ giả quân địch vừa rời trại thì chủ tướng bèn ra lịnh lui binh, nên lòng càng hoảng sợ mạnh ai nấy chạy người ngựa ngổn ngang dẫm đạp lên nhau hổn loạn thành một khối. Phù Kiên ra lệnh dừng lại thì đã không còn kịp nữa. Bên kia sông Tạ Thạch thấy thế bèn thừa cơ hạ lịnh quân sĩ cấp tốc sang sông truy sát. Quân Tần thấy quân Tấn qua sông ráo riết càng hoảng sợ hơn dẫm đạp lên nhau mà chạy trốn, đến nỗi nghe cơn gió thổi qua cây cỏ lào xào cũng tưởng là quân Tấn đã đuổi đến nơi rồi. Sự kiện nầy đưa đến câu thành ngữ PHONG THANH HẠC LỆ, THẢO MỘC GIAI BINH 風聲鶴唳,草木皆兵, có nghĩa : Tiếng gió thổi, tiếng hạc kêu, tiếng cỏ cây xào xạc cũng đều là binh lính cả ! Trận đánh nầy quân Tần đã đại bại. Phù Dung chết trong đám loạn quân, còn Phù Kiên trúng tên bị thương may mà chạy thoát được. Sử gọi trận đánh nầy là PHÌ THỦY CHI CHIẾN 淝水之戰.
        Nên tiếng PHONG HẠC là chỉ sự lo sợ hoảng hốt, như trong bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu :
            "Tiếng Phong Hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
            Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ."

 
PHONG THANH HẠC LỆ 風聲鶴唳, 

THẢO MỘC GIAI BINH ,草木皆兵,

        * PHONG QUANG 風光 : 
        - Gió và Ánh sáng. Theo như thơ của Tạ Thiểu 謝朓, một trong Cánh Lăng Bát Hữu 竟陵八友 là "Nhựt Hoa xuyên thượng động, Phong quang thảo tế phù 日華川上動,風光草際浮。", có nghĩa là Ánh nắng rực rỡ lay động trên sông và ánh sáng của gió rung rinh trên làn cỏ nổi trên mặt nước. Gió vốn không có ánh sáng, nhưng trên cỏ được ánh sáng mặt trời chiếu vào, cho nên khi cỏ rung rinh dưới ngọn gió thì tưởng chừng như là gió có ánh sáng vậy. Nên ... Phong Quang chỉ phong cảnh sáng sủa rạng rỡ xinh tươi,
        - Như trong Mai Đình mộng ký của Nguyễn Huy Hổ 阮輝琥 :
Phong Quang tám bức vờn tranh,
Bình non mượn khảm, gương doành lét tô.

        * PHONG SẮC 豐嗇 : 
        PHONG là Đầy là Hơn. SẮC là Cạn là kém. Do thànnh ngữ có xuất xứ từ Kinh Thi là "Bỉ Sắc Tư Phong 彼嗇茲豐". Có nghĩa : Cái nầy đầy thì cái kia vơi. Theo luật bù trừ của tạo hóa, được cái nầy thì mất cái kia, 
        - Như trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du đã mở đầu câu truyện bằng thuyết bù trừ nầy:
Lạ gì Bỉ Sắc Tư Phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
        - Và trong Tự Tình Khúc của Cao Bá Nhạ cũng có câu :
Khuôn tạo hóa dẫu rằng Phong Sắc,
 Nợ phù sinh phó mặc bi hoan.

        * PHONG TRẦN 風塵 : 
        là Gió Bụi, là nơi gió nổi bụi bay, nên Phong Trần có các nghĩa sau đây :

       1. Chỉ cảnh đời thường nhiều gió bụi vất vả chật vật của đời người, 
        - Như trong truyện Bần Nữ Thán: 
 Còn hàn vi biết ai hay dở  
Trải Phong Trần mới rõ khá hèn.
        - Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều khi cho nàng cung nữ thất sủng luận về nhân sinh: 
 Phong Trần đến cả sơn khê  
 Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
         - Hay như trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã luận về định mệnh của con người như sau :
  ... Trời kia đã bắt làm người có thân  
 Bắt Phong Trần phải Phong Trần  
Cho thanh cao mới được phần thanh cao!

        2. Chỉ chốn yên hoa, nhà chứa, kỹ nữ. 
        - Theo "Phan Tử Tiện đề kỳ truyền thần vân: Gia hựu phong trần trung nhân diệc như thử, thịnh tai!" ( 潘子贱题其传神云: 嘉祐風塵中人亦如此,盛哉! ), có nghĩa: Phan Tử Tiện đời Đường đề vào bức họa truyền thần của mình là Phù hộ cho những người trong chốn Phong Trần đều được như thế nầy, chẳng là cũng thịnh lắm sao!". 
        - Trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du đã nói về cô Kiều :
 Tiếc thay trong giá trắng ngần,
 Đến Phong Trần cũng Phong Trần như ai !
         - Hay như khi Thúy Kiều thương cho thân phận ở lầu xanh của mình:
 Những là lần lữa nắng mưa,
 Kiếp Phong Trần đến bao giờ mới thôi ?!

 
       3. Chỉ cảnh chiến tranh ngoài biên tái, 
        - Theo như sách "Hán Thư-Chung quân truyện' 班固《汉书·终军传》:“边境时有风尘之警,臣宜披坚执锐当矢石,启前行。”, nói về Ban Cố: "Vùng biên giới thường phải cảnh giác chiến tranh, thần sẽ nai nịt cầm gươm giáo vượt tên đá mà xông về phía trước!" 
        - Trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái có câu :
Ngàn tây nổi áng Phong Trần,
 Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
       - Hay như trong Truyện Kiều đoạn nói về Từ Hải đi dựng nghiệp :
Phong Trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm xá gì.
Nghênh ngang một cỏi biên thùy,
Thiếu gì cô qủa thiếu gì đế vương !

        *
PHONG VÂN 風雲 : 
        là Gió Mây, lấy ý từ một câu trong Kinh Dịch :" Vân tòng long Phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ 雲從龍風從虎,聖人作而萬物睹。Có nghĩa : Rồng là thánh vật dưới nước, mây là hơi mước, nên rồng thở hơi ra mây; Cọp là chúa sơn lâm, tiếng gầm chấn động cả núi rừng như gió cuốn; còn thánh nhân xuất hiện thì khác với người thường nên muôn vật đều nhìn thấy mà hướng về. Nên PHONG VÂN chỉ sự hô ứng tốt lành, thời cơ thuận lợi, 
        - Như trong Đại nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái có câu :
Những ngờ oan trái bao giờ,
Nào hay thần tướng đợi chờ Phong Vân.
        - PHONG VÂN còn chỉ sự biến đỗi vô chừng, như câu nói của Thẩm Ước 沈约 đời Lương : " Ly chúc tiếp kỳ quang cảnh, Phong vân ích hồ duy tịch 沈約 : 曬矚接其光景,風雲溢乎帷席 " Có nghĩa : Sờ sờ quang cảnh trước mắt, gió mây bỗng chốc tràn đầy cả màn chiếu. Nên Phong Vân còn chỉ sự biến đổi bất ngờ hoặc phép biến hóa lạ kỳ, 
        - Như trong truyện Nôm Nữ Tú Tài có câu :
    Khấn rằng Thái Thượng Lão Quân,
    Cưởi trâu hóa phép Phong Vân chớ chầy !

        * PHỈ PHONG 菲葑 : 
        Phỉ là củ cải, Phong là củ mì củ sắn, hai loại củ ăn được ở nhà quê. 
        - Có xuất xứ từ Kinh Thi 詩經, chương Bội Phong Cốc Phong 邶风,谷风: Thái phong thái phỉ, vô dĩ hạ thể? Đức âm mạc vi, cập nhĩ đồng tử 采葑采菲,无以下体?德音莫违,及尔同死。Có nghĩa : Hái củ cải hái củ mì, chẳng lẽ chỉ hái phần cây lá ở trên mà không lấy phần củ quả bên dưới? Lời nhân đức giữa vợ chồng với nhau thì không bao giờ quên, nguyện sẽ cùng chàng sống chết có nhau. Tạm diễn Nôm bằng lục bát như sau:
Hái củ cải, hái sắn mì,
Phần ăn bên dưới, bò đi thế nào ?
Trao lời tình nghĩa biết bao,
Nguyện cùng sống chết chẳng nao lòng này ! 
nên PHỈ PHONG trong văn học cổ chỉ vợ chồng cần kiệm sống chết có nhau.
Thái phong thái phỉ, vô dĩ hạ thể ?

 

        - Trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du cũng đã cho Thúy Kiều nói với Kim Trọng khi Kim tỏ tình là:
Ngẩn ngơ nàng mới thưa rằng:
"Thói nhà băng tuyết chất hằng Phỉ Phong,
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha ... 

 

        Xin tạm kết thúc các điển tích về chữ PHONG ở đây, hẹn bài viết tới!

Đỗ Chiêu Đức

Trời đêm phố lạnh

<D.548><Thời Tiết-Khí Hậu>



TRỜI ĐÊM PHỐ LẠNH

Sương trùm phố nhỏ lạnh trời đêm
Vắng vẻ đường khuya tĩnh lặng thềm
Ngõ hẻm lùa nhanh làn gió nhẹ
Thư phòng đắp vội mảnh mền êm
Nằm thao thức điểm canh chờ vãn
Niệm dỗ dành ru giấc ngủ mềm
Cảnh huống trây ỳ rơi quạnh quẽ
Ai người thố lộ nhủ lòng thêm.

Ai người thố lộ nhủ lòng thêm
Lẳng lặng đèn soi dỗi má mềm
Gió đẩy tường thưa màng chuyển nhẹ
Trăng chồm ánh bạc mảng tràn êm
Im lìm điệu oán trầm cung vũ
Dớ dẩn rèm co quạnh dãy thềm
Thả thức tầm phương cầu tĩnh tại
Sương trùm phố nhỏ lạnh trời đêm.

Mai Thắng -
190625

♠ Bài xướng của Hồng Mai (4T vòng 1)

NỖI ĐÊM 

(Liên hoàn thuận nghịch vận, Thủ vĩ tương lân)

Gió thổi qua mành nặng Nỗi Đêm
Vầng trăng sấp ngửa dãi cô thềm
Qua mùa chuyển tiết đâu tình vẹn
Lụi áng nhô vành chẳng nghĩa êm
Cảnh dẫu còn mơ gài mộng thắm
Hồn như đã thỏa khép cung mềm
Vuông tròn vẹt khuyết ai cùng nhỉ
Rượu loãng thơ quèn tủi xót thêm
+
Rượu loãng thơ quèn tủi xót thêm
Buồn vui chén nguyệt lỡ say mềm
Thưa rèm ngỏ liếp canh trầm mặc
Hẹp ngõ mong người thủa ấm êm
Bóng nhạt hoài khơi vào thẳm cõi
Hình xưa vẫn gợi nép hoang thềm
Khuya trời quạnh giấc bao lần nhỉ
Gió thổi qua mành nặng Nỗi Đêm

Hồng Mai
25/06/19

Duyên Thơ

<D.547~Xã Hội> 



DUYÊN THƠ

Cám cảnh se tình những bạn thơ
Thuyền dong rảo bến vọng xa bờ
Yên lòng gửi gắm niềm tâm sự
Láu lửa thêu thùa chuỗi mộng mơ
Mỹ tứ sàng niêm nguồn cảm đẹp
Hài âm chuốc vận ngưỡng êm mờ
Dài năm tháng đậm vui nhàn lãm
Nguyện vững tay nghề trải hóng tơ!

Mai Thắng – 190625

-------------- 
♠ Bài xướng của Bùi Xuân Phương trên MGT

DUYÊN TẰM

Ta cùng xướng hoạ những vần thơ
Ý tốt lời hay vượt bến bờ
Rộn rã bài đưa trao lắm ước
Êm đềm tứ gửi gói nhiều mơ
Gieo từ bốn bể tình không nhạt
Trải chữ muôn nơi nghĩa chẳng mờ
Biết mấy thân thương hoà bạn hữu
Duyên tằm ủ kén dệt đường tơ.

buixuanphuong09
08:08 - 20/06/2019

X89. Màn Đêm Nhuốm Lạnh

<D.546~Thiên Nhiên Khí Tiết> 


MÀN ĐÊM NHUỐM LẠNH

Màn đêm nhuốm lạnh thoảng sâu hồn
Những giọt mưa hờ trút đổ suông
Điện tĩnh mơ màng buông ánh tỏa
Đàn khuya huyễn hoặc tấu âm buồn
Trầm ngâm quãng lặng soi tiềm thức
Dã dượi canh dài vẳng tiếng chuông
Vãn hạ qua dần cơn thảng thốt
Vần thơ ứ nghẹn quẩn quanh buồng.

Mai Thắng – 190625
@1542 > MB > 88%

♠ Bài xướng của Cao Bồi Già

QUÃNG SẦU

Rả rich mưa gieo những giọt buồn
Côn trùng hòa điệu, khóc than suông
Đèn soi bấc tỏa lu loe ánh
Gió thổi âm nghe nẫu quạnh hồn
Trên vách thạch sùng vang tiếng oán
Ngoài xa cổ tự vẳng hồi chuông
Trăng mờ cố lách vào song cửa
Trốn lạnh qua đêm một góc buồng

CAO BỒI GIÀ
17-06-2019

♠ Bài họa của Sông Thu

ĐÊM ĐÔNG HẠ TUẦN

Mờ mịt sương giăng ảm đạm buồn
Hạ tuần ủ dột mảnh trăng suông
Côn trùng rền rĩ trong sân cỏ
Nhịp mõ rã ròi sau tiếng chuông
Dơi vút chập chờn như ác quỷ
Mèo kêu thảm thiết tựa oan hồn
Gió lùa phần phật màn khung cửa
Buốt giá tràn lan ngập khắp buồng.

Sông Thu

♠ Bài họa của Mai Lộc

ĐÊM BUỒN

Mơ màng thần trí những đêm buồn
Hồn lạc thẩn thờ chén rượu suông.
Tiếng vạc não nùng rờn rợn tóc
Nhạc lòng thổn thức ủ ê hồn.
Trường xưa trong nảo vang hồi trống
Thôn cũ bên đường vẳng ngựa chuông.
Nguyệt lạnh hiên ngoài sương tí tách
Giật mình khuya khoắt, trở về buồng.

Mailoc
6-17-19

♠ Bài họa TNĐ của Liêu Xuyên

BIỂN DÂU SẦU

Đọc Xuôi:

Quê hương cảnh nhớ thiết tha buồn,
Cổ nhạc lời ca tiếng hát suông.
Mê mãi ruộng đồng tươi thắm lúa,
Luyến lưu làng xóm ngẩn ngơ hồn.
Tê lòng mộng tưởng sầu dâu biển,
Xót dạ chiều nghe vẳng mõ chuông.
Thê thảm cuộc đau đời ngược gió…
Thề xưa lỗi thẹn cửa song buồng !

Đọc Ngược:

Buồng song cửa thẹn lỗi xưa thề,
Gió ngược đời đau cuộc thảm thê !
Chuông mõ vẳng nghe chiều dạ xót,
Biển dâu sầu tưởng mộng lòng tê.
Hồn ngơ ngẩn xóm làng lưu luyến,
Lúa thắm tươi đồng ruộng mãi mê,
Suông hát tiếng ca lời nhạc cổ…
Buồn tha thiết nhớ cảnh hương quê !

Liêu Xuyên

♠ Bài họa của Nguyễn Thị Mỹ Ngọc

THU SANG

Mầu lá vàng rơi đẹp hút hồn
Đêm thu sương bạc ủ trăng suông.
Một đàn ô thước xây cầu nổi,
Hai bến sông ngân thấm lệ buồn.
Chiều tím am thôn đều nhịp mõ,
Tinh mơ xóm đạo vọng hồi chuông.
Tao nhân hạ bút bao vương vấn,
Con nhện giăng tơ ở góc buồng.

Nguyễn Thị Mỹ Ngọc.
Jun.17/2019.

♠ Bài họa của Thy Lệ Trang

TỪ ĐÓ...

Lặng lẽ chờ ai...lặng lẽ buồn
Một mình đối mặt chén trà suông
Trời khuya,quán vắng...mênh mông gió
Bóng nhỏ,đường xa...lạnh lẽo hồn
Bến cũ đò qua bao lượt khách
Đêm dài chùa đổ mấy lần chuông
Em về đốt hết trang thơ tím
Từ đó...rèm buông,khép chặt buồng !

Thy Lệ Trang

♠ Bài họa của Lạc Thủy Đỗ Quý Bái

BĂNG GIÁ ĐẦY BUỒNG

Mưa Rơi ti tách chỉ thêm buồn ,
Vắng bạn chèo queo nghĩ ngợi suông :
Mai Lộc ôm sầu thêm rụng tóc
Như Thu gối mộng có ru hồn ?
Làng xưa chợt nhớ đâu còn trống !
Xóm cũ không quên đã mất chuông!
Nằm mãi ê lưng ngồi bó gối ....
Tưởng như băng giá ngập đầy buồng !

LTĐQB

Hoàng Hạc Lâu - Thôi Hiệu

<C.037><Dịch Hán thi> 

HOÀNG HẠC LÂU - THÔI HIỆU (?-?)



★ Nguyên bản Hán Văn

黃鶴樓
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
崔顥

★ Phiên âm

HOÀNG HẠC LÂU
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
THÔI HIỆU

★ Dịch nghĩa

Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông tạnh rực rỡ hàng cây đất Hán Dương 
Cỏ thơm mọc tươi tốt trên bãi Anh Vũ 
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu
Khói, sóng trên sông khiến buồn lòng người. 

★ Dịch thơ 

LẦU HOÀNG HẠC

- Thất ngôn
Cưỡi cánh giang hồ đến tận đâu
Người xưa khuất dạng cảnh hoang lầu
Vàng trơ hạc chuyển bay mù hướng
Trắng nhạt mây vờn hút bóng dâu
Sông tạnh Hán Dương cây rỡ sắc
Cỏ thơm Anh Vũ bãi tươi mầu
Quê nhà giữ lặng phương nào nhỉ
Khói tỏa sông dài dạ ngấm sâu

- Lục bát 
Người xưa cưỡi hạc đi đâu 
Vợi trông Hoàng Hạc cảnh lầu xác xơ
Hạc vàng đi tự bao giờ
Vầng mây trắng tản bơ vơ góc trời
Hán Dương chim vẫn gọi mời
Cây Anh Vũ vẫn xinh tươi sắc màu
Quê nhà lặng bóng phương nao
Trên sông khói tỏa lòng đau ngậm ngùi

Mai Thắng

 Cảm tác lục bát của Ngân Hà trên facebook

LỠ MỘT ĐỜI

Dù làm cánh hạc nơi đâu
 Thì xin một kiếp bạc đầu nhớ thương 
 Lầu kia còn mãi vấn vương
Trông về hướng ấy dẫu đường xa xôi
Mây trời vẫn cứ dần trôi
Cùng cây Anh vũ đâm chồi nở bông
Một người dõi mắt hoài trông
Một người lỡ chuyến giữa dòng đời qua

Nganha