27 tháng 5 2019

Thiên Tải Nhất Thì

<C.030><Điển tích văn học> 
Đề tài: THIÊN TẢI NHẤT THÌ
Biên soạn: Đỗ Chiêu Đức 


        Sau khi chứng kiến Thúy Kiều báo ân báo oán xong, thì sư " Giác Duyên vội vả gởi lời từ quy ".Thúy Kiều mới cầm lại : 

Nàng rằng : THIÊN TẢI NHẤT THÌ,
Cố nhân đã dễ mấy khi BÀN HOÀN !
Rồi đây BÈO HỢP MÂY TAN,
Biết đâu HẠC NỘI MÂY NGÀN là đâu ?!

        T
a sẽ làn lượt tìm hiểu các Thành Ngữ : THIÊN TẢI NHẤT THÌ, BÀN HOÀN, BÈO HỢP MÂY TAN, HẠC NỘI MÂY NGÀN.

        THIÊN TẢI NHẤT THÌ 千載一時 : THIÊN là Ngàn, TẢI là Năm, NHẤT là Một, THÌ là Khi, là Lúc. Nên Thiên Tải Nhất Thì là Ngàn năm một lúc, ta quen nói là NGÀN NĂM MỘT THUỞ. Theo như tích sau đây :
        Đời vua Đường Hiến Tông ( 805-820 ). Nhà vua rất tin Phật, định làm lễ rước cốt Phật( Xá Lợi) vào cung. Lúc đó có Hàn Dũ là quan Hình Bộ Thị Lang dâng " Gián nghinh Phật cốt biểu 諫迎佛骨表 ", can gián vua đừng nghinh cốt Phật vào cung. Hiến Tông xem biểu chương , giận định xử Hàn Dũ tội chết, may nhờ có Tể Tướng và các quan đương triều xin cho mới khỏi tội chém đầu, nhưng lại bị biếm đi làm Ngự Sử đất Triều Châu. Về sau, Đường Hiến Tông còn cho cải cách một số chính sách của triều đình, làm cho công việc triều chính thuận lợi và tốt hơn lên. Hàn Dũ lại dâng " Triều Châu Ngự Sử tạ thượng biểu 潮州刺史謝上表". Tán dương việc cải cách triều chính của nhà vua, đồng thời đề nghị nhà vua nên đi làm lễ Phong Thiền ở núi Thái Sơn.

        PHONG THIỀN 封禪 là lễ tế cáo trời đất của vua chúa ngày xưa. Người xưa cho rằng, trong Ngũ Nhạc Thái Sơn là cao lớn nhất, nên lập đàn trên đỉnh Thái Sơn để tế trời, gọi là PHONG 封. Còn ở chỗ bằng phẵng của sườn núi lương Phụ Sơn tế đất, thì gọi là THIỀN 禪. Trong lịch sử, chỉ có Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang và Chu Thành Vương là có cử hành đại lễ nầy mà thôi. Nên Hàn Dũ nói thế cũng có nghĩa là tâng bốc nhà vua là đấng minh quân như Nghiêu Thuấn ngày xưa, vì thế mà nhà vua rất đẹp dạ. Nhà vua cho là trước đây can vua nghinh cốt Phật, bây giờ lại khuyên vua tế cáo trời đất, Hàn Dũ quả là người dám nghĩ dám nói, thẳng thắng vô tư, nên cho triệu hồi về kinh để phục lại chức cũ.

        Vì trong biểu tấu có câu : Đương thử chi tế, sở vị Thiên Tải Nhất Thì bất khả phùng chi gia hội 當此之際,所謂千載一時不可逢之嘉會. Có nghĩa : Trong dịp ( lễ hội ) nầy, quả là ngày hội lớn mà ngàn năm một thuở khó có để mà gặp được. Nên lại hình thành hai câu thành ngữ :

        THIÊN TẢI NHẤT THÌ 千載一時 : 
Ta thường nói là " Ngàn năm một thuở " để chỉ việc gì đó, hoặc dịp may nào đó, rất hiếm khi mà gặp được, có được.

        THIÊN TẢI NAN PHÙNG 千載難逢 : 
là "ngàn năm khó gặp". Nghĩa cũng đã rất rõ ràng, chỉ việc gì đó may mắn lắm mới gặp được. Nên, câu nói của Thúy Kiều với Giác Duyên: Nàng rằng: THIÊN TẢI NHẤT THÌ, "ngàn năm một thuở", khó khăn lắm mới gặp được bà đây, thôi thì...  Cố nhân đã dễ mấy khi BÀN HOÀN.

        BÀN HOÀN 盤桓 : BÀNG HOÀNG có gờ(G) là : Ngỡ Ngàng, là Thảng thốt. BÀN và HOÀN đều không có gờ(G). BÀN lá Cái Mâm, HOÀN là Cây Cột ở giữa nhà. Nhưng BÀN HOÀN là từ ghép có nghĩa là : Lòng Vòng, Quanh Co, Dụ Dự, Trù trừ, Nấn ná ... 
        Nên câu : 
Cố nhân đã dễ mấy khi BÀN HOÀN.  Có nghĩa: Bạn cũ dễ gì có dịp Nấn Ná ở chơi như thế nầy( sao mà đi vội thế !).

        Theo U Thông Lục, văn tuyển của Ban Cố 文選·班固<幽通賦>: Thừa linh huấn kỳ hư từ hề, trữ BÀN HOÀN nhi thả sĩ “承靈訓其虛徐兮,竚盤桓而且俟。” Có nghĩa : Được sự dạy bảo và răn đe của thần linh, nên còn NẤN NÁ đứng đó mà chờ đợi.

        Theo " Trần Tình Biểu " của Lý Mật đời Tấn 晉 李密 《陳情事表》: Quá mông bạt trạc, sủng mệnh ưu ốc, khởi cảm BÀN HOÀN, hữu sở hi ký ? 過蒙拔擢,寵命優渥,豈敢盤桓,有所希冀?. Có nghĩa : Nhờ ơn được cất nhắc, lại được thương mến ưu đãi, làm sao còn dám NẤN NÁ mà có điều tính toán khác chớ ?!

        Nói chung, BÀN HOÀN ở đây có nghĩa là NẤN NÁ, là lưu lại không đi. Chớ không phải BÀNG HOÀNG là Thảng Thốt, Ngỡ Ngàng ...


       
Đến câu : Rồi đây BÈO HỢP MÂY TAN,  BÈO, vừa thấy hợp đó bỗng liền tan đó, theo dòng nước chảy đẩy đưa , nên bèo tan hợp bất thường; cũng như những đám mây trên trời lửng lơ theo gió, tan hợp vô chừng. Nên BÈO HỢP MÂY TAN dùng để ví sự gặp gỡ hay biệt ly không biết trước được (tựa như bèo và mây, hợp đấy rồi lại tan ngay đấy. Biết đâu HẠC NỘI MÂY NGÀN là đâu ?

        HẠC NỘI là Hạc ở đồng nội, tự do bay lượn trong đồng nội mênh mông; MÂY NGÀN là Mây trôi nổi ở trên ngàn, cũng phất phơ vô định. HẠC NỘI MÂY NGÀN có gốc Hán việt là CÔ VÂN DÃ HẠC 孤雲野鶴 Có nghĩa là : Đám mây cô độc lơ lửng trôi lang thang không biết về đâu và con hạc ngoài cánh đồng hoang, tự do bay lượn không bị gò bó buộc ràng gì cả. Thường dùng để chỉ sự vân du bốn phương của các đạo sĩ tu tiên ngày xưa. Theo như hai câu thơ của Lưu Trường Khanh đời Đường 唐· 劉長卿 là Tống 
Phương Ngoại Thượng Nhân thi《送方外上人》詩:

孤雲將野鶴, Cô vân tương dã hạc,
豈向人間住。 Khởi hướng nhân gian trú.
        Có nghĩa :
Mây Ngàn theo Hạc Nội,
Bay khỏi cỏi nhân gian.

        Nên... HẠC NỘI MÂY NGÀN ngoài nghĩa chỉ tự do tự tại ra, còn có nghĩa là không chịu sự trói buộc của danh lợi và những thường tình của con người.

        Trở lại với 4 câu thơ trong Truyện Kiều :
Nàng rằng : THIÊN TẢI NHẤT THÌ,
Cố nhân đã dễ mấy khi BÀN HOÀN !
Rồi đây BÈO HỢP MÂY TAN,
Biết đâu HẠC NỘI MÂY NGÀN là đâu ?!

        Có nghĩa : Thúy Kiều nói với sư Giác Duyên rằng : Ngàn năm một thuở, lâu lắm ta mới có dịp gặp nhau đây; dễ có mấy khi bạn cũ lại gặp được nhau như thế nầy, sao không nấn ná ở chơi vài hôm. Rồi đây chúng ta sẽ như là bèo hợp mây tan, mỗi người một nơi; còn bà ( chỉ sư Giác Duyên ) thì như là hạc nội mây ngàn có biết bà đi đâu và về đâu đâu mà tìm mà kiếm ?!


Đỗ Chiêu Đức 

24 tháng 5 2019

Vần Thơ

<R02~Vần Thơ>

Núi Nga Mi


VẦN THƠ

★★★

MỤC LỤC
1. KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT
    1.1. Khái niệm về thơ, vần thơ
    1.2. Khái niệm về ngữ âm
2. ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT
    2.1. Âm đầu
    2.2. Âm đệm
    2.3. Âm chính
    2.4. Âm cuối
    2.5. Thanh điệu
3. CẤU TRÚC ÂM TIẾT
    3.1. Cấu trúc vần, vần cái 
    3.2. Bảng vần cái
    3.3. Tương quan giữa các vần cái       
    3.4. Tính vần điệu của vần thơ
   
     
★★★

1. KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT 

1.1. Khái niệm về thơ, vần thơ

        Thơ là một loại hình văn học diễn tả ý tưởng của con người về một chủ đề nhất định mà tác giả muốn trình bày.
        Cũng như Văn, Thơ xuất phát từ ngôn ngữ nói của con người, khởi nguồn có tính tự phát bằng các từ, ngữ được trau chuốt và phát triển thành câu, bài; nhưng Thơ khác Văn vì có tính chương khúc, tính vần điệu theo quy định của luật thơ;
        Tính chương khúc thể hiện ở số từ, số câu quy định việc hình thành bài thơ; tính vần điệu hình thành một bộ phận cấu trúc gọi là bộ vần, là một tổ hợp từ giữ vai trò mối tương quan về mặt ngôn từ và vị trí của từ gọi là từ vần hay vần thơ;
        Về bản chất, mối tương quan của các vần thơ căn cứ vào cấu trúc âm tiết của các vần thơ đó, tức là thuộc lĩnh vực chuyên ngành ngữ âm học.

1.2. Khái niệm về ngữ âm học

       
Ngữ âm học (Phonectics) là một chuyên ngành ngôn ngữ học nghiên cứu tiếng nói con người. Tiếng nói con người là một loại âm thanh ngôn ngữ do bộ máy phát âm của con người tạo ra. Mỗi cộng đồng có một tiếng nói riêng, tiếng nói của người Việt Nam là tiếng Việt; 
        Tiếng Việt là toàn bộ các câu nói bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, không biến hình và có thanh điệu; 
        Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên ngành ngữ âm học, đơn vị ngữ âm của Tiếng Việt là tiếng hay từ thể hiện dưới dạng âm tiết. Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất của lời nói; 
        Âm tiết gồm nhiều thành tố, cấu trúc theo các tính năng riêng biệt để hình thành các vần thơ, tính vần điệu của bài thơ; 
        Phần diễn giải cách trình bày có liên quan đến âm tiết sẽ dùng phiên âm quốc tế IPA đặt trong ký hiệu /…/, khi cần giải thích cho rõ thêm sẽ dùng thêm chữ viết tiếng Việt, có thể đặt trong ký hiệu […]

★★★

2. ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT

       Âm tiết (syllable) tiếng Việt có 5 thành tố (component): 1) âm đầu, 2) âm đệm, 3) âm chính, 4) âm cuối, 5) thanh điệu;
       
2.1. Âm đầu (initial sound)

        Âm đầu là âm đứng đầu âm tiết và bao giờ cũng là phụ âm (consonant) nên còn gọi là phụ âm đầu;
        Phụ âm đầu hình thành theo 2 yếu tố cấu âm: a) theo phương thức cấu âm: chia thành các nhóm đối lập tắt/xát, ồn/vang, hữu thanh/vô thanh; b) theo vị trí cấu âm: chia thành các nhóm phụ âm môi, phụ âm lưỡi: đầu lưỡi, mặt lưỡi, cuống lưỡi và phụ âm họng; 
        Âm đầu của âm tiết tiếng Việt hiện nay có số lượng là 21, và 1 phụ âm câm, không có chữ viết, gồm các âm như sau:
        1. âm /b/, chữ viết [b], ví dụ: bửu bối,
        2. âm /m/, chữ viết [m], ví dụ: may mắn,
        3. âm /f/, chữ viết [ph], ví dụ: phương pháp,
        4. âm /v/, chữ viết [v], ví dụ: vui vẻ,
        5. âm /t/, chữ viết [t], ví dụ: tư tưởng,
        6. âm /t’/, chữ viết [th], ví dụ: thơm tho,
        7. âm /d/, chữ viết [đ], ví dụ: đông đúc,
        8. âm /n/, chữ viết [n], ví dụ: non nước,
        9. âm /z/, chữ viết [d, gi], ví dụ: dành giật,
        10. âm /ʐ,/, chữ viết [r], ví dụ rành rẽ,
        11. âm /s/, chữ viết [x], ví dụ: xong xuôi,
        12. âm /ş/, chữ viết [s], ví dụ: sung sướng,
        13. âm /c/, chữ viết [ch], ví dụ: chuyên chế,
        14. âm /ʈ/, chữ viết [tr], ví dụ: trớ trêu,
        15. âm /ɲ/, chữ viết [nh], ví dụ: nho nhã,
        16. âm /l/, chữ viết [l], ví dụ: lặng lẽ,
        17. âm /k/, chữ viết [c, k, q], ví dụ: quá cao kều,
        18. âm /χ/, chữ viết [kh], ví dụ: không khí,
        19. âm /ŋ/, chữ viết [ng, ngh], ví dụ: ngốc nghếch,
        20. âm /ɣ/, chữ viết [g, gh], ví dụ: gập ghềnh,
        21. âm /h/, chữ viết [h], ví dụ: hiền hậu,
        22. âm câm /?/, không có chữ viết, ví dụ: yên ổn. 
        
2.2. Âm đệm (medial sound)

        
Âm đệm là âm xuất hiện giữa âm đầu và âm chính, là một bán âm (semi wovel) có cấu tạo như nguyên âm /u/ nhưng chỉ có chức năng tu chỉnh chứ không tạo nên âm sắc của âm tiết. Nói cách khác, âm đệm là một hiện tượng tròn môi của phụ âm đầu hoặc tổ hợp âm chính và âm cuối;
        Tiếng Việt có duy nhất 1 âm đệm /w/ chữ viết ghi là [u] hay [o], thường xuất hiện hạn chế trong một số từ tiếng Việt;

2.3. Âm chính (nuclear sound)

        Âm chính là âm làm trung tâm của âm tiết và bao giờ cũng là nguyên âm (wovel), là thành phần không thể thiếu của âm tiết;
        Âm chính của âm tiết tiếng Việt có 11 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi và phân làm 3 nhóm nguyên âm (nhóm NA):
        a) Nhóm NA1, là nhóm NA hàng trước không tròn môi, có 3 nguyên âm đơn /i, e, ɛ/, chữ viết [i, ê, e] và 1 nguyên âm đôi /ie/, chữ viết [ia-iê, ya-yê];
        b) Nhóm NA2: là nhóm NA hàng sau tròn môi, có 3 nguyên âm đơn /u, o, ɔ/, chữ viết [u, ô, o] và 1 nguyên âm đôi /uo/, chữ viết [ua-uô];
        c) Nhóm NA3: là nhóm NA hàng sau không tròn môi, có 5 nguyên âm đơn /ɨ, ə, ə̆, a, ă/, chữ viết [ư, ơ, â, a, ă] và 1 nguyên âm đôi /ɨə/, chữ viết [ưa-ươ]. Trong đó, 2 nguyên âm đơn /ə̆, ă/ là thể ngắn của /ə, a/, và ký hiệu /ə-ə̆/, /a-ă/ là ghi chung cho trường hợp dài ngắn của các âm này. 

2.4. Âm cuối (final sound)

        Âm cuối là âm đứng cuối vần, cuối âm tiết;
        Âm cuối của âm tiết tiếng Việt có số lượng là 8, chia thành 2 nhóm: - Nhóm BAC: là nhóm có 2 bán âm /j, w/, chữ viết [i-y, o-u]; - Nhóm PAC: là nhóm có 6 phụ âm là /m, n, ŋ, p, t, k/, chữ viết [m, n, ng-nh, p, t, c-k]; - Ngoài ra, cũng thường xuất hiện nhóm KAC: là nhóm không âm cuối;
        Âm cuối của âm tiết tiếng Việt có đặc tính mở khép cấu trúc âm tiết, nên  chia thành 4 kiểu âm tiết:
        1) Âm tiết mở: kiểu các vần cái không có âm cuối;
        2) Âm tiết hơi mở: kiểu các vần cái có âm cuối là 2 bán âm /j, w/;
        3) Âm tiết hơi khép: kiểu các vần cái có âm cuối là 3 phụ âm /m, n, ŋ/;
        4) Âm tiết khép: kiểu các vần cái có âm cuối là 3 phụ âm /p, t, k/.
 
2.5. Thanh điệu (tone)

        Thanh điệu là sự nâng cao hay hạ thấp giọng nói trong âm tiết;
        Thanh điệu thể hiện trên toàn âm tiết bằng các dấu thanh: ngang “không dấu“, sắc “/”, huyền “\”, nặng “.”, hỏi “?”, ngã”~” đặt ngay trên âm chính chữ viết (trừ một số ngoại lệ có quy định khác, hoặc là thanh ngang không thể hiện dấu thanh, hoặc là thanh nặng đặt dưới âm chính);
       Thanh điệu có 6 dấu thanh, chia thành 2 loại: - Thanh bằng, là các thanh điệu mang dấu thanh ngang, huyền; - Thanh trắc, là các thanh điệu mang dấu thanh sắc, nặng, ngã, hỏi;

3. CẤU TRÚC ÂM TIẾT  

3.1. Cấu trúc vần, vần cái
 
        Ở dạng đầy đủ nhất, âm tiết tiếng Việt có 3 bộ phận cấu trúc: phụ âm đầu, vần, thanh điệu, kết hợp theo sơ đồ sau đây: 
       

Âm

đầu

VẦN

Thanh

điệu

Âm đệm

Âm chính

Âm cuối

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

       Bộ phận phụ âm đầu do thành tố âm đầu đảm nhiệm, bộ phận thanh điệu do thành tố thanh điệu đảm nhiệm, riêng bộ phận vần là một tổ hợp 3 thành tố: âm đệm, âm chính và âm cuối;
        Vì âm đệm chỉ có chức năng tu chỉnh âm sắc để tạo ra hiện tượng tròn môi của phụ âm đầu hoặc của tổ hợp âm chính và âm cuối, nên tổ hợp âm chính và âm cuối được coi là thành phần cốt lõi của bộ phận vần và được gọi là vần cái (tiếng Hán Việt gọi là vận căn).

3.2. Bảng vần cái

        Bảng vần cái được minh họa theo hình thức: - âm chính xếp theo số mã hàng, chia thành 3 nhóm nguyên âm NA1, NA2 và NA3; - âm cuối xếp theo số mã cột, chia thành 3 nhóm âm cuối KAC, BAC và PAC; - mỗi ô (cell) gọi là một ô vần cái gồm 1 âm chính và 1 âm cuối, trừ nhóm KAC chỉ có âm chính mà không có âm cuối. Tất cả được trình bày theo sơ đồ dưới đây:

Số mã

Âm IPA

Nhóm KAC

Nhóm BAC /j/ và /w/

Nhóm PAC
/m, n, ŋ/ và /p, t, k/

 

 

1

2

3

4

5

6

7

8

9

1

/i/

i

 

iu

im

in

inh

ip

it

ich

2

/e/

ê

 

êu

êm

ên

ênh

êp

êt

êch

3

/ε/

e

 

eo

em

en

anh

ep

et

ach

4

/ie/

ia

 

iêu

iêm

iên

iêng

iêp

iêt

iêc

5

/u/

u

ui

 

um

un

ung

up

ut

uc

6

/o/

ô

ôi

 

ôm

ôn

ông

ôp

ôt

ôc

7

/ɔ/

o

oi

 

om

on

ong

op

ot

oc

8

/uô/

uôi

 

uôm

uôn

uông

uôp

uôt

uôc

9

/ɨ/

ư

ưi

ưu

 

ưn

ưng

 

ưt

ưc

10

/ə/

ơ

ơi

ơu

ơm

ơn

 

ơp

ơt

 

11

/ə̆/

 

ây

âu

âm

ân

âng

âp

ât

âc

12

/a/

a

ai

ao

am

an

ang

ap

at

ac

13

/ă/

 

ay

au

ăm

ăn

ăng

ăp

ăt

ăc

14

/ɨə/

ươ

ươi

ươu

ươm

ươn

ương

ươp

ươt

ươc


3.3. Tương quan giữa các vần cái 

        - Vần thơ giữ vai trò liên thông âm điệu đặc trưng của thể thơ, thể hiện nơi bộ vần là bộ khung cấu trúc của bài thơ do luật thơ quy định. Mối tương quan giữa 2 vần thơ chính là hệ quả so sánh sự giống nhau và khác nhau của hoặc là âm chính, hoặc là âm cuối tức là vần cái của 2 vần thơ đó;
        - Khi so sánh 2 vần thơ cho kết quả:
        1) âm chính giống nhau, âm cuối giống nhau, thì mối tương quan này gọi là tương quan chính vận hay vần chính;
        2) âm chính khác nhau, âm cuối khác nhau, thì mối tương quan này gọi là tương quan lạc vận hay vần lạc;
        3) âm chính giống nhau, âm cuối khác nhau, hoặc là âm chính khác nhau, âm cuối giống nhau, thì mối tương quan này gọi là tương quan thông vận hay vần thông;
        - Khi so sánh 2 vần thơ về sự giống nhau hoặc khác nhau của âm chính hoặc âm cuối đó, đòi hỏi phải thỏa các điều kiện quy định cụ thể:
        1) các âm giống nhau phải là các âm duy nhất;
        2) các âm khác nhau phải là các âm cùng chung nhóm, hoặc là các âm tương ứng của 2 nhóm nguyên âm hàng sau thuộc nhóm NA2 và NA3.

3.4. Tính vần điệu của vần thơ

        Tính vần điệu của vần thơ được luật thơ quy định thành các loại vần:
        - Vần chính được xem như các loại vần chuẩn mực của bài thơ;
        - Vần thông có giá trị thấp hơn, nhưng có thể dùng thay cho vần chính;
        - Vần lạc có giá trị thấp nhất, không ràng buộc, như là không phải vần.

- Hết -