Nhãn

22 tháng 1 2021

C. Trường Can Hành - Lý Bạch

<C.050><Dịch Hán thi>

TRƯỜNG CAN HÀNH - LÝ BẠCH 


★ Nguyên bản Hán Văn

長干行                 
妾髮初覆額    
折花門前劇     
郎騎竹馬來     
遶床弄青梅    (.) 
同居長干裡     
兩小無嫌猜     
十四為君婦    
羞顏未嘗開    
低頭向暗壁    
千喚不一回    (.)
十五始展眉    
願同塵與灰    
常存抱柱信    
豈上望夫臺   (.) 
十六君遠行    
瞿塘灩澦堆    
五月不可觸    
猿聲天上哀   (.) 
門前遲行跡    
一一生綠苔    
苔深不能掃    
落葉秋風早    (.)
八月蝴蝶黃    
雙飛西園草    
感此傷妾心    
坐愁紅顏老    (.)
早晚下三巴    
預將書報家    
相迎不道遠    
直至長風沙。(.)
李白                        

★ Phiên âm 

TRƯỜNG CAN HÀNH
Thiếp phát sơ phúc ngạch
Chiết hoa môn tiền kịch
Lang kỵ trúc mã lai
Nhiễu sàng lộng thanh mai …
    Đồng cư Trường Can lý
    Lưỡng tiểu vô hiềm sai
    Thập tứ vi quân phụ
    Tu nhan vị thường khai.
    Đê đầu hướng ám bích
    Thiên hoán bất nhứt hồi…
Thập ngũ thỉ triển mi,
Nguyện đồng trần dữ hôi.
Thường tồn bảo trụ tín,
Khởi thượng Vọng phu đài…
    Thập lục quân viễn hành,
    Cù Đường Diễm Dự đôi.
    Ngũ nguyệt bất khả xúc,
    Viên thanh thiên thượng ai…
Môn tiền trì hành tích,
Nhất nhất sinh lục đài.
Đài thâm bất năng tảo,
Lạc diệp thu phong tảo…
    Bát nguyệt hồ điệp hoàng,
    Song phi tây viên thảo.
    Cảm thử thương thiếp tâm,
    Tọa sầu hồng nhan lão…
Tảo vãn hạ Tam Ba,
Dự tương thư báo gia.
Tương nghinh bất đạo viễn,
Trực chí trường phong sa.
    Lý Bạch 

★ Dịch nghĩa 

KHÚC HÁT TRƯỜNG CAN

… Khi tóc thiếp vừa phủ xuống trán
Đang hái hoa chơi đùa trước cửa
Chàng cởi ngựa tre chạy đến
Vòng quanh miệng giếng để ngắt ghẹo cành mai xanh.
… Chúng ta cùng lớn lên ở xứ Trường Can
Hai đứa trẻ cùng ngây thơ không ngại ngùng gì cả
Mười bốn tuổi thiếp về làm vợ chàng
Mà vẫn còn rất thẹn thùng bẽn lẽn 
Chỉ cúi đầu nằm xây mặt vào vách
Chàng gọi trăm ngàn lần vẫn không quay đầu lại.
… Mười lăm tuổi mới mở mặt mở mày
Nguyện cùng đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau
Quyết một lòng chung thủy với chàng (bảo trụ tín)
Cho dù phải lên Vọng Phu Đài để trông ngóng chồng
… Mười sáu tuổi chàng lại phải đi xa
Đến tận xứ Cù Đường, Diễm Dự
Tháng Năm không thể tiếp xúc được
Tiếng vượn hú vang trời bi ai
… Trước cửa còn in những dấu hài
Đều đã nổi rêu xanh dày hết
Cố quét hoài vẫn không xóa dấu.
Lá rụng theo làn gió thu sớm thổi,
… Tháng Tám với những con bướm vàng,
Bay song đôi trong vườn tây đầy cỏ,
Làm cho thiếp cảm thấy thương tâm cho thân phận lẻ loi,
Ngồi đây mà sầu não cho cái nhan sắc sớm già nua của mình
… Nếu trong một sớm tối nào đó mà chàng về đến xứ Tam Ba,
Hãy viết thư về nhà báo cho thiếp biết trước,
Thiếp sẽ chẳng nệ đường xa mà đi đón chàng
Dù cho phải trực chỉ đến tận Trường Phong Sa.

    Tình cảm chân thực của người vợ trẻ cùng lớn lên với chồng chung một ngôi làng, từ còn ngây thơ đến lúc lấy nhau, đồng cam cộng khổ, gắn bó để rồi lại phải chia tay và khao khát được đoàn viên chẳng ngại khó khăn ngày sum họp. Bài thơ nổi tiếng không chỉ vì chuyện tình của đôi lứa mà còn vì hai câu thơ bất hũ là nguyên gốc của điển tích “Thanh Mai Trúc Mã”:
    Lang kỵ Trúc Mã lai                 郎騎竹馬來
    Nhiễu sàng lộng Thanh Mai.   繞床弄青梅。

★ Dịch thơ

TRƯỜNG CAN HÀNH

- Ngũ ngôn 

… Tóc thiếp che vầng trán
Trước cửa khẽ đùa chơi
Trúc Mã chàng thả đến
Quanh giếng đùa Thanh Mai.
… Quê Trường Can khôn lớn
Hai đứa còn thơ ngây
Làm vợ năm mười bốn
E thẹn giữ lâu dài
Quay đầu vào vách trốn
Chàng khều nắm không xoay.
… Mười lăm đà mở mặt
Thề cộng khổ đồng tay
Lòng thủy chung đã quyết
Dẫu lên Vọng Phu đài.
… Mười sáu chàng dấn bước
Cù Đường, Diểm Dự ôi!
Tháng Năm không gặp được
Vượn hú trời xa xôi.
… Dấu hài in trước cửa
Đã mọc đầy rêu xanh
Không quét đi được nữa
Thu sớm, lá rụng nhanh.
… Tháng Tám vàng bướm lượn
Từng đôi dạo vườn tây
Thiếp thương đời lẻ bạn
Ngồi ngắm phận tàn phai.
… Tam Ba về sớm trễ
Cũng thư báo ngay nhà
Đường dù xa chẳng nệ
Đến vội Trường Phong Sa.

- Lục bát

… Tóc che vầng trán lòa xòa
Vô tư trước cửa giỡn hoa miệt mài
Chàng phi Trúc Mã khoe tài
Chạy quanh giếng ghẹo Thanh Mai điệu đàng.
… Lớn lên nơi xứ Trường Can
Thơ ngây còn đọng xóm làng còn ghi
Năm mười bốn tuổi thành thê
Thẹn thùa lắm nỗi thẹn e lắm điều
Đêm nằm lơ cú móc khều
Chàng kêu thiếp vẫn thảy đều làm ngơ.
… Mười lăm mở mắt tìm mơ
Đồng cam cộng khổ dệt tơ lâu dài
Thủy chung giữ vẹn không sai
Lòng vui dẫu phải lên đài Vọng Phu.
… Mười sáu chàng bước phiêu du
Cù Đường, Diễm Dự mây mù khó khăn
Tháng Năm không thể vào thăm
Bi ai vượn hú xa xăm tầng trời.
… Trước sân in đậm dấu hài
Giờ nơi lưu dấu bám dày rêu xanh
Không sao tẩy xóa quét nhanh
Thu về lá rụng lìa cành đơn côi.
… Bướm vàng Tháng Tám cuốn lôi
Vườn Tây bay lượn từng đôi nhịp nhàng
Thương đời cô lẻ buồn chan
Ngồi đây ngắm phận hồng nhan chiều tà.
… Nếu chàng về đến Tam Ba
Lời thư trực hướng quê nhà báo sương
Dù xa cũng chẳng ngại đường
Vội vàng thiếp sẽ đến Trường Phong Sa.

Mai Thắng  
210118

Nét Đẹp Sen Hồng

<D.662><Cảnh Hoa Trái>



NÉT ĐẸP SEN HỒNG

Phơi màu trắng nở rực vầng dương
Nhã điệu thuần tâm điểm sắc hường
Mở búp reo mừng nghênh lĩnh địa
Chen đài đứng thẳng gọi tình thương
Đồng sâu cuộc sống trên thành quả
Phố lộng hồn hoa giữa cảnh phường
Lặng lẽ vươn tầm cao khả ái
Sen hồng sẽ đẹp dáng trầm hương.

Mai Thắng 
210120

---------------------------- 
★ Bài xướng của Mai Thành

LỘNG DÁNG SEN

Đẹp dáng áo hồng đón ánh dương
Hồn nhiên trang nhã vượt lan, hường
Dịu dàng vươn thẳng trên bùn nước
Tươi tắn bước cao tận phố phường
Ấn tượng tinh anh dành thủ phủ
Lưu tình... hòa ái tặng quê hương
Đài sen lộng cảnh mơ Xuân mới
Đất Tháp lưu tình... em mến thương!

MAI THÀNH

----------------------------- 
★ Bài họa của Thu Nguyệt Ánh

LỘNG DÁNG SEN 

Ngây thơ núng nính cợt tà dương
Nũng nịu kiêu sa dễu đoá hường
Biểu tượng Quốc Hoa “hồn Nước Việt”
Đoan trang thục nữ “khuông viên Phường”
Chồn chân khách lạ” khen kỳ Phủ”
Mõi gối người xa “lại cố hương”
Thành Phố Nàng Thơ “Sen Đất Tháp”
Rộn Xuân háo hức...ngập yêu thương!!!

Thu Nguyệt Ánh

Mừng Xuân Tân Sửu 2021

<D.661~Thơ Xuân> 



MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021

Chào xuân hỉ họa chúc Trâu Vàng
Rộn rã trong lòng chuẩn bước sang
Xếp đủ gom đầy vui chuộng lão
Cày suôn xới mạnh giỏi thông đàng
Bao lần rỗi rảnh tìm thư thái
Những lượt sai lầm cảm xốn xang
Bỏ gánh phiền nhen thời nhiễu dịch
Dìu xe chạy tránh chỗ căng càng.

Mai Thắng – 210117

★ Thơ mời họa của Đỗ Chiêu Đức

MỪNG XUÂN TÂN SỬU 2021

Tân Sửu chào xuân năm mới sang
Kim Ngưu đích thị chú trâu vàng
Chúc cho thế giới qua Cô-Vít
Mong ước nhân sinh tốt mọi đàng
Thân hữu trong ngoài đều phát đạt
Đồng môn nội ngoại thảy bình an
Hòa bình khắp chốn vui như...Tết
Bỏ hết ngoài tai chuyện cũ càng.

Đỗ Chiêu Đức
Xuân 2021

★ Câu đối cho năm TÂN SỬU của Đỗ Chiêu Đức

TÂN là Cay, Cay đắng đã qua mừng năm mới;
SỬU là Trâu, Trâu cày tiếp nối đón xuân sang.


★ Đáp họa câu đối năm Tân Sửu của Mai Thắng

Tân là cái mới. Cái mới với nới hoài không tới
Sửu ấy con trâu. Con trâu rầu lâu nữa sẽ ngầu

E13. Tỏ Tấm Chân Tình

<E.13~Cuộc Sống>


1. Lời Thơ Tạ Lỗi

Lời thơ tạ lỗi nhắn trao chàng
Gửi kết thâm tình duỗi mộng sang
Trót rã rời mang buồn tẻ quán
Đành ôm ấp niệm phải xa làng
Quê nghèo khó nhọc không hờn cản
Ruộng cũ cơ bần chẳng thốt than
Giữ quyết lòng son đùa lửa vạn
Thời qua thuận bước sẽ lên ngàn.

Mai Thắng (191012)

-----------------------------

2. Nhắn Người

Ở chính hay rời nguyện cũng không
Vờ than giả vãn hoặc thay lòng
Đêm dài gối lẻ âm thầm mộng
Tiết lạnh hương trầm dũng cảm mong
Hãy khoát màn thông vườn ngự uyển
Thường treo ảnh đượm sắc hoa hồng
Sinh thời vất vả cầu thanh tĩnh
Vạch chuỗi giao thần buổi rét đông

Mai Thắng (191016)

-----------------------------

3. Vãn Lượt Tháng Mười

Dù sao hẳn giữ tiếng vui cười
Để méo chu tròn miệng cũng tươi
Ngõ mộng sôi bùng trăng đối cảnh
Tình xuân vụt cháy lửa đeo người
Thương nhiều kỷ niệm còn ôm ấp
Gợn bấy hương thề vẫn rảo bươi
Tích trữ duyên nồng say ảo vọng
Ngày qua vãn lượt Tháng sang Mười

Mai Thắng (191023)

-----------------------------

4. Nối Đường Tơ

Yêu người tạo ước thảo vần thơ
Tự buổi làm quen mãi hóng chờ
Trữ dáng ôn tồn đan biển mộng
Trao tình ấp ủ dệt trời mơ
Hồn say nhạc phổ hòa men ấm
Tiếng vọng màn đêm dõi ảnh mờ
Cảm xúc nhìn hoa quỳnh duỗi nụ
Thương ngùi lặng lẽ nối đường tơ.

Mai Thắng (191024)

-----------------------------

5. Tỏ Tấm Chân Tình

Soi nguồn sống trải bạt ngàn dâu
Muốn nhủ đồng tâm giữ nhịp cầu
Mảnh đất tươi hồng luôn phục sẵn
Con đường khổ nạn đã chìm sâu
Tròn chung khẽ ước vui ngày hội
Trọn thủy thầm mơ vãn khối sầu
Những buổi hoàng hôn trời lộng gió
Thâm tình rộng mở chuỗi dài lâu.

Mai Thắng (191025)

21 tháng 1 2021

C. Vô Đề 2 - Lý Thương Ẩn

<C.049><Dịch Hán thi>

VÔ ĐỀ 2 - LÝ THƯƠNG ẨN (813-858)



★ Nguyên bản 

无题                       
相見時難別亦難      
東風無力百花殘      
春蠶到死絲方盡      
蠟炬成灰淚始乾      
曉鏡但愁雲鬢改      
夜吟應覺月光寒      
蓬萊此去無多路      
青鳥殷勤為探看。
李商隱                              

★ Phiên âm

VÔ ĐỀ
Tương kiến thì nan biệt diệc nan
Đông phong vô lực bách hoa tàn
Xuân tàm đáo tử ti phương tận
Lạp chúc thành hôi lệ thủy can
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
LÝ THƯƠNG ẨN 

★ Dịch nghĩa 

Vô đề  
Gặp được nhau đã khó, chia lìa nhau lại càng khó hơn
Gió xuân không đủ sức, để trăm hoa phải tàn úa
Con Tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ lòng
Ngọn nến tàn thành tro mới khô những giọt lệ nến
Sớm mai soi gương mới buồn cho tóc mây đã thay đổi
Ban đêm ngâm thơ mới chợt nhận ra ánh trăng lạnh lẽo
Đường đến Bồng Lai không có nhiều lối
Ân cần nhờ chim xanh dọ hỏi dùm

★ Dịch thơ 

VÔ ĐỀ 2

Khó gặp nên thời khó biệt nhau
Gió xuân lả cánh để hoa nhàu
Con tằm kiệt sức đường tơ cạn
Ngọn nến khô ngòi mắt lệ lau
Chải tóc nhìn gương buồn chuyển mái
Ngâm thơ cảm nguyệt lạnh phai màu
Bồng Lai dẫn đến không nhiều lộ
Mượn lũ chim rừng hỏi biết mau.

Mai Thắng

E12. Đợi Phút Tìm Nhau

<E.12~Cuộc Sống>


1. ĐỢI PHÚT TÌM NHAU

Mai này ắt hẳn nghĩ về sau
Để bóng thời gian vẫn đậm màu
Gửi lại tình yêu miền kí vãng
Mang gìn kỷ niệm những niềm đau
Lời thơ trắc ẩn nguôi hồn quạnh
Bản nhạc trầm tư ngẫm giấc nhàu
Nếu phải còn duyên thì sẽ nguyện
Ôm lòng mãi đợi phút tìm nhau.

Mai Thắng (190831)

-----------------------------

2. NIỀM THƯƠNG LỐI NHỎ

Lối nhỏ thu về dịu bữa nay
Gìn men gợi tưởng nhớ nhung đầy
Hương còn tản mạn khơi dòng chảy
Mộng vẫn êm đềm thả mắt say
Kỷ niệm đong tràn trao mấy dãy
Thời gian lắng đọng lẫn bao ngày
Niềm thương gửi trọn ân tình ấy
Thỏa chuỗi lay lòng quyện gió ngây

Mai Thắng (190903)

-----------------------------

3. GHÉP MẢNG HƯƠNG NỒNG

Ghép mảng hương nồng vững tạc in
Từ trong não trạng kết mơ gìn
Tâm đầy lửa nhiệt lay bầu huyết
Nghĩa vẹn giao hòa trải đức tin
Chọn những niềm yêu đồng hướng gửi
Cài muôn ý niệm mở khung nhìn
Tay chìa nhấp thưởng đường thi tập
Tửu ấm thanh lòng mãn nguyện xin

Mai Thắng (190903)

-----------------------------

4. Ý NIỆM GIỐNG NÒI

CÔNG khai lịch sử trấn binh phòng
ĐỨC tạo vinh hiền rạng rỡ trong
TIỀN kiếp lầm sâu truyền lệ thuộc
NHÂN căn ám thị biện long dòng
XIN dân chủ sống tâm hòa hợp
TẠC tự do thời trí điểm đong
DẠ chắc muôn người ca chính nghĩa
MẪU GƯƠNG TỔ PHỤ NGUYỆN GHI LÒNG

Mai Thắng (190908)

-----------------------------

5. NHẪN NHỦ HÒA VUI

Nhẫn nhủ hòa vui tránh tạo phiền
Cho dù gặp cảnh chớm khùng điên
Ngày lo tỉnh trí làm xong việc
Tối giữ bền tâm thả niệm thiền
Tự cảm thiên đường luôn ý nghĩ
Duy trì cõi tịnh cũng thần tiên
Chờ cơ giải thoát bình yên đợi
Quả phúc rồi sau sẽ ngộ điền.

Mai Thắng (190928)

E11. Sân Bóng

<E.11~Bóng Đá>


1. SÂN BÓNG

Bước chạy anh hào giẫm cỏ tranh
Người buông kẻ nhận lấn chen giành
Phân làn chiến trận tràn công đả
Định cõi sân nhà gắng thủ canh
Quả bóng xoay tròn khiêu vũ thuật
Giày thô biến ảo triệt khung thành
Chờ trông thắng bại cùng đi bão
Những khúc yêng hùng hả dạ nhanh.

Mai Thắng (191214)

-----------------------------

2. ĐỪNG GIẬN

Nàng ơi đừng giận với đừng phi
Trận bóng dù sao cũng chút gì
Nọ cú tung chân đầy điệu hỉ
Kia màn sút phạt khó mần chi
Nhìn xem thế thủ lo nhiều nhỉ
Hãy ngắm hàng công biến diệu kì
Ấy đấy gaul rồi ôi khoái chí
Còi tan trận thổi sẽ rồi đi!

Mai Thắng (160629)

-----------------------------

3. PHẠT ĐỀN

Cân bằng thế trận giữa hai bên
Giải quyết hơn thua chấm phạt đền
Cầu thủ nhùng nhằng xoay quả đá
Thủ môn nhún nhảy dọa đường lên
Đầu căng mắt nhắm tung bừa phứa
Não rối giò đơ sút nhẹ sền
Một phút nguyện cầu đầy cảm xúc
Thời cơ lão luyện cũng xui hên

Mai Thắng (160703)

-----------------------------

4. TRẬN CHUNG KẾT

Những cuộc so tài quanh sắc áo
Những người trẻ tuổi thực anh hào
Dày công hợp dũa nên đồng thuận
Luyện chí chung mài đợi gửi trao
Thủ lĩnh cao cơ nguồn thắng lợi
Thành viên nhiệt huyết cảnh tuôn trào
Bước chân khập khiễng niềm mơ lớn
Trí tuệ dung hòa vượt đỉnh cao!

Mai Thắng (160712)

20 tháng 1 2021

E10. Tình Thu Lạc Mất

<E.10~Vần Thu Cảm>


1. Tình Thu Lạc Mất

Tình thu tất bật vẫn dênh dàng
Những giọt ngâu buồn đổ ngấm loang
Chạnh ngắm giàn khoan rời lãnh hải
Đành rơi chữ bạn khắc khung vàng
Bao thời biểu quyết ân dành hậu
Mấy thuở tôn thờ nghĩa tạc hoang
Cảm thán lòng thâm vồ đoạt giữ
Niềm tin lạc mất cõi thiên đàng.

-----------(190922)----------- 


2. Những Ngày Cuối Thu

Những trận ngâu buồn đổ tái tê
Dường thu lặng lẽ chuyển thay nề
Thời đang đợt bão trùm u ám
Nắng lịm bên trời rũ thảm thê
Lá vẫn rơi đầy che trực cảm
Đường luôn rải nhộn khắp tư bề
Đông rồi sẽ tới vòng nhân quả
Đợi mãi xuân dành mảnh đất quê.

-----------(190929)----------- 


3. Ngày Thu Khắc Khoải

Miền quê một kiếp lả thân hời
Vọng mãi trong lòng giấc chả vơi
Nẻo hứa say hồn luôn nghiệt ngã
Đường nhen thử lượt cũng tơi bời
Thương vùng đất khổ tràn mê ngự
Cảm khúc ca buồn nhiễm dạo khơi
Những khoản đời vui còn được mấy
Ngầm đau cuộc thế chửa xoay thời

-----------(190929)----------- 


4. Lắng Buổi Thu Tàn

Mùa qua lá rụng khẽ đưa vèo
Cỏ mặc nhiên vờn nắng duỗi theo
Lặng lẽ vườn hoa bùng cảnh sắc
Thờ ơ khúc nhạc trỗi lưng đèo
Mưa hoài rớt hạt ngâu thầm nhủ
Gió vẫn trêu mành ngọn khản reo
Những áng mây chiều trôi mệt mỏi
Hồn thu lạc nẻo gắng bươn trèo.

-----------(191107)----------- 


5. Lắng Tiếng Thu Rơi

Cảnh diễn ra bày một dáng thu
Trời trong chẳng gợn chút mây mù
Hanh vàng nắng đổ tia kiều dưỡng
Ngát đỏ hoa bùng mộng viễn du
Gạn những niềm đau dần thức tỉnh
Cài khuông ý niệm giải thâm thù
Bao giờ tỏ được nguồn chân lý
Dõi lá sang mùa cảm điệu ru.

-----------(191125)-----------

 Mai Thắng  

19 tháng 1 2021

C. Khách Chí - Đỗ Phủ

<C.048><Dịch Hán thi>

KHÁCH CHÍ - ĐỖ PHỦ (712-770)



★ Nguyên bản 

客至                                  
舍南舍北皆春水, 
但見羣鷗日日來。 
花徑不曾緣客掃, 
蓬門今始爲君開。 
盤飧市遠無兼味, 
樽酒家貧只舊醅。 
肯與鄰翁相對飲, 
隔籬呼取盡餘杯。 
杜甫                                  

★ Phiên âm

KHÁCH CHÍ
Xá nam xá bắc giai xuân thủy
Đản kiến quần âu nhựt nhựt lai
Hoa kính bất tằng duyên khách tảo
Bồng môn kim thủy vị quân khai
Bàn tôn thị viễn vô kiêm vị
Tôn tửu gia bần chỉ cựu phôi
Khẳng dữ lân ông tương đối ẩm
Cách ly hô thủ tận dư bôi.
ĐỖ PHỦ

    Mùa xuân năm Thượng Nguyên thứ hai đời Đường (761), Đỗ Phủ đã năm mươi tuổi. Lúc bấy giờ ông đang định cư nơi đất Thục với một ngôi thảo đường (nhà cỏ) ở đầu các khe suối vùng ngoại ô của Thành Đô. Sau những năm lưu ly loạn lạc, đây là thời gian ông được sống an nhàn nơi thảo dã. Bài KHÁCH CHÍ được làm trong khoảng thời gian nầy.

★ Dịch nghĩa 

Khách đến 
Phía nam phía bắc nhà tôi trọ đều là nước xuân,
Có những con chim hải âu ngày ngày bay đến.
Hoa rụng đầy lối mòn sẽ được quét sạch vì có khách;
Cửa cỏ bồng nầy hôm nay mới được mở ra đón bạn.
Mâm thức ăn ở xa chợ nên không có đủ vị ngon;
Rượu bày ra của nhà nghèo là loại cũ ủ để dành;
Nếu bạn đồng ý cùng uống vài ly với ông hàng xóm;
Tôi ra rào gọi ông ta cùng uống hết rượu thừa này.

★ Dịch thơ 

KHÁCH ĐẾN 

Thuê nam trọ bắc cũng đầy xuân
Lũ hải âu siêng đến đảo quần
Dẹp ngõ dàn hoa chào mặc khách
Khai đường mở cửa đón người thân
Mâm bàn cách chợ không nhiều món
Hũ rượu hàn gia ngát cảnh bần
Để gọi bên rào ông xóm ghé
Tay chuyền nốc cạn chén thừa khuân.

Mai Thắng 
(190924)

E09. Nắng Bủa Thu Vàng

<E.09~Vần Thu Cảm>


1. Nắng Bủa Thu Vàng

Nắng bủa THU vàng rực rỡ hoa
Hồn THU thỏa ước gợi duyên hòa
Màn thi vị đẫm dìu THU xướng
Cảnh sắc THU gầy bật ngữ ca
Quyện ngõ êm đềm THU khách thể
Chào THU phảng phất giậu sân nhà
Mây mừng gió giỡn THU hiền dịu
Nắng bủa THU vàng rực rỡ hoa

-----------(190822)-----------

2. Chạnh Tiếng Thu Xưa

Vẫn nặng oi nồng chuyển tiết hanh
Vài cơn gió động thoảng lay mành
Hồ in mặt nước loang toàng tỏa
Liễu rủ ven bờ sóng sượt quanh
Gợi bóng trời quang lừa lĩnh cảm
Nhìn muôn thảm họa lấn chen thành
Quê nghèo khắc mảnh phông đùn vỡ
Dữ kiện đau lòng hủy nét tranh.
-----------(190829)-----------

3. Tự Tình Mùa Thu

Hàng hiên nhẹ điểm ánh trăng mờ
Bão tố không làm lạc khoảng mơ
Mở khúc ca trù ru mộng diễn
Chèn âm điệu oán ngỏ thương chờ
Duyên đời đã trải thời khăng khít
Ý niệm luôn quàng nỗi thẩn thơ
Ngọn gió lay mành rơi huyễn ảo
Cầu nhân thế trọn những tôn thờ
-----------(190904)-----------

4. Miền Quê Vào Thu

Hạ đã vào thu chuyển sắc màu
Bao ngày tháng đẫy cận kề nhau
Đồng chan nắng hạn ươm đòng nõn
Gió rảo triền sông duỗi ngọn nhàu
Ủ ấp mưa nguồn vun lãnh địa
Ôm chầm khí vận thẳng hàng cau
Chìm trong khát vọng vùng quê mở
Những điệu còi ngân vẳng tiếng tàu.
-----------(190908)-----------

5. Chiều Thu Ngắm Biển

Chiều u tịch ngắm biển quê mình
Ẩn hiện ngư thuyền bóng hãi kinh
Dãi sóng binh quyền luôn cợt nhả
Bày cơ thế trận chẳng công bình
Lòng dân rõ thấu trò nghênh đoạt
Cảm thức tranh đòi lẽ tuyệt sinh
Lịch sử lưu truyền vai chiến hữu
Nghìn năm Bắc thuộc giễu ân tình.
-----------(190921)-----------

Mai Thắng 

Những Nụ Hôn

<D.660~Thơ Vui>



NHỮNG NỤ HÔN

Ướm những lần hôn quả diệu kì
Như dòng điện kích nỗi cuồng si
Vòng tay trói chặt vùng phong toả
Chót lưỡi dần xoay điểm ghẹo ghì
Thụ cảm len vào sâu cõi thức
Mê chìm thẩm thấu động bờ mi
Hồn ngơ ngẩn lạc miền hoang dã
Ướm những lần hôn quả diệu kì

Mai Thắng
(190219)

Thơ Đường Ngũ Độ Thanh

<D.659~Xã Hội> 


THƠ ĐƯỜNG NGŨ ĐỘ THANH

Ngồi buồn bắt sáu thằng thanh
Viết thơ ngũ độ tỏ tình cùng em
Sáu thằng năm cái ba rem
Chèn trên lọt dưới… bung hèm thơ ơi!


1.
Ôi dào ngũ độ … sáu thằng thanh
Hán ngữ mần sao … thật chửa sành
Lũ trắc ken từ chen chọn đủ
Hai bằng thiểu vận xếp kề quanh
Còn e lỗi bệnh theo dòm ngó
Vẫn ngại lời thơ mếu dở hành
Đọc thử bài xong … chừng khoái đã
Nghe dòng nước chảy giữa triền xanh
2.
Nghe dòng nước chảy giữa triền xanh
Õng ẹo làm duyên điểm dáng lành
Bảy chữ tròn câu dành hiến bạn
Năm vần đủ bộ mến chờ anh
Bường xuôi vận trắc tra từ hảo
Diễn đạt tình chân tỏ ý thành
Tịnh dưỡng tâm hồn nuôi sảng khoái
Dâng lòng mỹ cảm sáu nàng thanh.

Mai Thắng
(190217)

14 tháng 1 2021

C. Thơ Nguyễn Trãi – Phần A

<C.047><Dịch Việt thi>

NGUYỄN TRÃI - 
Phần A: TRƯỚC KHI THÀNH DANH
(Thời Hậu Lê VN - Đỗ Chiêu Đức sưu tầm)




 Bài 1. THÍNH VŨ

1.1. Nguyên bản 

聽雨                          
寂寞幽齋裏,      
終宵聽雨聲。    
蕭騷驚客枕,      
點滴數殘更。      
隔竹敲窗密,     
和鐘入夢清。      
吟餘渾不寐,      
斷續到天明。      
阮廌                              

1.2. Phiên âm

THÍNH VŨ 
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu hao kinh khách chẩm
Điểm trích sổ tàn canh
Cách trúc xao song mật 
Hoà chung nhập mộng thanh
Ngâm dư hồn bất mị
Đoạn tục đáo thiên minh.
NGUYỄN TRÃI 

1.3. Dịch nghĩa 

Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.

1.4. Dịch thơ

NGHE MƯA

Thư phòng đêm tỉnh mịch
Nghe rả rích canh dài
Khách ngậm buồn da diết
Mưa tuôn đổ miệt mài
Xạc xào bên bụi trúc
Vang vọng giữa màng tai
Thao thức hoài không ngủ
Nhịp đều tận ánh mai

Mai Thắng  
190930

---------------------- 

 Bài 2. KÝ HỮU

2.1. Nguyên bản 

寄友                                     
半生世路嘆屯邅    
萬事惟應付老天    
寸舌但存空自信    
一寒如故亦堪憐    
光陰焂忽時難再     
客舍凄涼夜似年     
十載讀書貧到骨     
盤惟苜蓿坐無氈。 
阮廌                                   

2.2. Phiên âm 

KÝ HỮU 
Bình sinh thế lộ thán truân chiên
Vạn sự duy ưng phó lão thiên
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín
Nhất hàn như cố diệc kham liên
Quang âm thúc hốt thời nan tái
Khách xá thê lương dạ tự niên
Thập tải độc thư bần đáo cốt
Bàn duy mục túc, toạ vô chiên
NGUYỄN TRÃI 

2.3. Dịch nghĩa 

Bình sinh đường đời nhiều vất vả quá thể
Vạn việc chỉ nên phó cho trời già
Tấc lưỡi hãy còn, tưởng cũng tự tin được
Cứ một cảnh nghèo như cũ thật đáng thương
Ngày tháng (sáng tối) đi qua vùn vụt khó mà trở lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như cả một năm
Mười năm đọc sách (học hành) mà nghèo đến tận xương
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu. 

2.4. Dịch thơ 

GỬI BẠN

Sau loạn người rơi tựa lá hồng
Chân trời tin nhạn hút vời trông
Ba canh đắm mộng hồn quê dõi
Trùng dế kêu vang bốn vách lồng
Đỗ lão tâm tình hương Vị Bắc
Quản Ninh di trú khách Liêu Đông
Việt Trung ước được lời thăm hỏi
Lời đáp sinh nhai quyện cỏ bồng.

Mai Thắng  
190930

------------------------ 

 Bài 3. LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC

3.1. Nguyên bản 

亂後到崑山感作      
一別家山恰十年      
歸來松菊半翛然      
林泉有約那堪負      
塵土低頭只自憐      
鄉里纜過如夢到      
干戈未息幸身全      
何時結屋雲峰下      
汲澗烹茶枕石眠      
阮廌                                  

3.2. Phiên âm

LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên
Hương lý tài qua như mộng đáo
Can qua vị tức hạnh thân tuyền
Hà thời kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên
NGUYỄN TRÃI 

3.3. Dịch nghĩa 

Sau loạn về Côn Sơn cảm tác
Rời vùng quê miền núi nầy thoắt cái đã mười năm rồi.
Nay về thăm lại tùng, cúc đã tiêu điều quá nửa.
Đã có hẹn ới dòng suối nơi đây thì không nở phụ ước,
Cúi đầu nhìn đất quê mà thương thân mình lưu lạc,
Làng xóm thoáng qua như trong giấc mộng,
Chiến tranh còn dai dẵng, may mà thân được bảo toàn,
Bao giờ mới dựng một mái tranh dưới mây gió nầy,
Lấy nước suối pha trà và gối đầu lên tảng đá mà ngủ.

3.4. Dịch thơ

SAU LOẠN VỀ CÔN SƠN

Thắm thoắt mười năm biệt cố hương
Cúc tùng quá nửa nhuốm thê lương
Núi rừng hẹn ước ngày quay lại
Mảnh đất đê đầu mối cảm thương
Thôn xóm vờn qua như giấc mộng
Chiến tranh còn giữ tấm thân vương
Bao giờ kết thúc trời mây tạnh
Gối đá nằm ru ngủ dưới sương.

Mai Thắng  
141114

----------------------

 Bài 4. QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC

4.1. Nguyên bản 

归昆山舟中作        
十年飄轉嘆蓬萍, 
歸思搖搖日似旌。 
幾托夢魂尋故里, 
空將血淚洗先塋。 
兵餘斤斧嗟難禁, 
客裡江山只此情。 
鬱鬱寸懷無奈處, 
船窗推枕到天明。 
阮廌                                  

4.2. Phiên âm 

QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình
Quy tứ dao dao nhật tự tinh
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý
Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh
Binh dư cân phủ ta nan cấm
Khách lý giang sơn chỉ thử tình
Uất uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
NGUYỄN TRÃI

4.3. Dịch nghĩa 

Mười năm phiêu dạt như cỏ bồng cánh bèo
Ý muốn trở về ngày nào cũng nao nao (như cờ dựng trong trí)
Bao lần gửi hồn trong mộng về làng cũ
Mang bằng tưởng tượng huyết lệ về tẩy mộ tổ tiên
Than ôi, sau loạn lạc làm sao cấm cản được vụ búa rìu?
Trong cảnh khách này chỉ có mối tình ấy với giang sơn
Tấc lòng u uất thật khó xử
Song cửa thuyền lay gối mãi đến sáng trời.

* Côn Sơn: Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.

4.4. Dịch thơ

THUYỀN VỀ CÔN SƠN

Mười năm phiêu dạt cảnh bồng bềnh
Kiếp sống giang hồ phận nổi nênh
Gửi mộng hồn về quê thất tán
Gìn tiên mộ rưới lệ trôi dềnh
Kiếm đao sau loạn còn rơi rớt
Đất khách trong thời cũng bấp bênh
U uất lòng đau canh cánh mãi
Khoan thuyền tỏ rạng ánh bình minh.

Mai Thắng  
191007

--------------------- 

 Bài 5. LONG ĐẠI NHAM

5.1. Nguyên bản 


龍岱岩   
去年虎穴我曾窺, 
龍岱今觀石窟奇。 
鰲負出山山有洞, 
鯨遊塞海海為池。 
壼中日月天難志, 
世上英雄此一時。 
黎范風流嗟漸遠, 
青苔半蝕璧間詩。 
阮廌                                  

5.2. Phiên âm 

LONG ĐẠI NHAM
Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy
Long Đại kim quan thạch quật kỳ
Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động
Kình du tắc hải, hải vi trì
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão
Thế thượng anh hùng thử nhất thì
Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn
Thanh đài bán thực bích gian thi.
NGUYỄN TRÃI 

5.3. Dịch nghĩa 

Năm trước ta đã từng xem hang cọp
Nay lại đến xem động Long Đại, một động núi lạ
Con ngao đội núi lên thành động
Cá kình bơi lấp biển thành ao
Trong bầu nhật nguyệt trời khó già
Anh hùng trên đời thì chỉ là một thuở
Nếp sống phong lưu của hai họ Lê và Phạm than ôi cũng xa dần
Thơ trên vách đá cũng đã bị rêu xanh gấm nhậm rồi.

5.4. Dịch thơ

NÚI LONG ĐẠI

Hổ huyệt năm xưa đã ngó vào
Nay nhìn Long Đại dáng kỳ cao
Ngao nâng phiến tảng, non thành động
Kình quẫy khơi trùng, biển hóa ao
Nhật nguyệt trong bầu vơ lão vất
Anh hùng giữa thế được thời khao
Tài hoa Lê Phạm dần phai nhãng
Tựa nửa bài thơ vách đá bào.

Mai Thắng 
191008

Tà Áo Trắng

<D.658><Mái Trường> 



TÀ ÁO TRẮNG

Ngã mảng dương chiều vệt nắng lay
Trường tan tản ngợp nét duyên bày
Chia tà lả lướt vờn mây dõi
Xõa vạt vươn đùa đuổi bóng say
Ráng ửng chùm tia hồng giỡn mộng
Đường ngây mấy nẻo điệu qua ngày
Tìm trong ký vãng hồn thơ dại
Những mảnh vui hoà quyện gió bay!

Mai Thắng
(190221)