<C.087~Hán Thi>
Đề bài: XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ
Tác giả: TRƯƠNG NHƯỢC HƯ
Thể thơ: thất ngôn tứ cú (9 khổ)
★ Bản chữ Hán
春江花月夜
春江潮水連海平,
海上明月共潮生。
灩灩隨波千萬里,
何處春江無月明。
江流宛轉繞芳甸,
月照花林皆似霰。
空裏流霜不覺飛,
汀上白沙看不見。
江天一色無纖塵,
皎皎空中孤月輪。
江畔何人初見月,
江月何年初照人。
人生代代無窮已,
江月年年只相似。
不知江月待何人,
但見長江送流水。
白雲一片去悠悠,
青楓浦上不勝愁。
誰家今夜扁舟子,
何處相思明月樓。
可憐樓上月徘徊,
應照離人妝鏡臺。
玉戶帘中捲不去,
搗衣砧上拂還來。
此時相望不相聞,
願逐月華流照君。
鴻雁長飛光不度,
魚龍潛躍水成文。
昨夜閒潭夢落花,
可憐春半不還家。
江水流春去欲盡,
江潭落月復西斜。
斜月沉沉藏海霧,
碣石瀟湘無限路。
不知乘月幾人歸,
落月搖情滿江樹。
張若虛
★ Âm Hán Việt
Xuân giang hoa nguyệt dạ
Xuân giang triều thuỷ liên hải bình,
Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
Diễm diễm tuỳ ba thiên vạn lý,
Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh.
Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,
Nguyệt chiếu hoa lâm giai tự tiển.
Không lý lưu sương bất giác phi,
Đinh thượng bạch sa khan bất kiến.
Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.
Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?
Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?
Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
Giang nguyệt niên niên chỉ tương tự.
Bất tri giang nguyệt đãi hà nhân,
Đãn kiến trường giang tống lưu thuỷ.
Bạch vân nhất phiến khứ du du,
Thanh phong phố thượng bất thăng sầu.
Thuỳ gia kim dạ thiên chu tử,
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?
Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi,
Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.
Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,
Đảo y châm thượng phất hoàn lai.
Thử thời tương vọng bất tương văn,
Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
Ngư long tiềm dược thuỷ thành văn.
Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
Khả liên xuân bán bất hoàn gia.
Giang thuỷ lưu xuân khứ dục tận,
Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.
Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy,
Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.
Trương Nhược Hư
--------------------
★ Dịch nghĩa (của Thi Viện)
Thuỷ triều lên, mặt sông xuân ngang mặt bể,
Trên bể, trăng sáng cùng lên với thuỷ triều.
Lấp loáng theo sóng trôi muôn ngàn dặm,
Có nơi nào trên sông xuân là không sáng trăng?
Dòng sông lượn vòng khu cồn hương thơm,
Trăng chiếu rừng hoa ngời như hạt tuyết.
Trên sông sương trôi tưởng như không bay
Bãi sông cát trắng, nhìn chẳng nhận ra
Sông và trời, một màu không mảy bụi,
Ngời sáng trong không, vầng trăng trơ trọi
Người bên sông, ai kẻ đầu tiên thấy trăng?
Trăng trên sông, năm nào đầu tiên rọi xuống người?
Người sinh đời đời không bao giờ ngừng
Trăng trên sông năm năm ngắm vẵn y nguyên
Chẳng biết trăng trên sông chiếu sáng những ai
Chỉ thấy sông dài đưa dòng nước chảy
Mây trắng một dải, vẩn vơ bay
Cây phong biếc xanh trên bờ buồn khôn xiết
Người nhà ai đêm nay dong con thuyền nhỏ
Người nơi nao trên lầu trăng sáng đương tương tư?
Đáng thương cho trên lầu vầng trăng bồi hồi
Phải chiếu sáng đài gương người biệt ly
Rèm nhà ngọc cuốn lên rồi, trăng vẫn không đi
Phiến đá đập áo lau đi rồi, trăng vẫn cứ lại
Giờ đây cùng ngắm trăng mà không cùng nghe tiếng nhau
Nguyện theo ánh đẹp vầng trăng trôi tới chiếu sáng bên người
Chim hồng nhạn bay dài không thể mang trăng đi
Cá rồng lặn nhảy, chỉ khiến làn nước gợn sóng
Đêm qua thanh vắng, mơ thấy hoa rơi,
Đáng thương cho người đã nửa mùa xuân chưa về nhà
Nước sông trôi xuôi, xuân đi sắp hết
Trăng lặn trên bãi sông, trăng xế về tây
Trăng xế chìm dần lẩn trong sương mù mặt bể
Núi Kiệt Thạch, sông Tiêu Tương đường thẳm không cùng
Chẳng biết nhân ánh trăng đã mấy người về
Trăng lặn, rung rinh mối tình, những cây đầy sông.
-------------------
★ Dịch thơ của Mai Thắng
XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ
(Sông Xuân Đêm Hoa Trăng)
- Dịch thất ngôn tứ cú
Con nước triều lên ngang mặt biển
Trăng lên sáng biển đón triều dâng
Sóng gợn lung linh loang vạn dặm
Sông xuân nào dễ thiếu màu trăng.
Sông lượn mùi thơm hương cỏ lạ
Trăng ngời hạt móc đẫm rừng hoa
Mặt sông sương mắc như hòa đọng
Bãi cát và trăng khó nhận ra
Sông lẫn màu trời không mảy bụi
Vầng trăng lơ lửng giữa tầng khơi
Đầu sông phương ấy ai nhìn trước
Trăng sáng năm nao rọi xuống người
Vạn kiếp nhân sinh không thể nghỉ
Sông trăng ngàn thuở vẫn y nguyên
Biết đãi ai người đang tỏa sáng
Sông dài con nước chảy triền miên
Mây trắng vẫn bay liền một dải
Bến Thanh Phong vẫn mải sầu thương
Du tử dong thuyền phiêu bạt thả
Lầu cao cô phụ chạnh dòng tương
Thương chốn lầu cao trăng lởn vởn
Chiếu đài gương vọng bóng phân ly
Rèm ngọc cuốn lên trăng vẫn đó
Chiếu chày đá giặt chẳng buồn đi
Cùng ngắm trăng mà đâu thể thấy
Ước cùng chung rảo bước tung tăng
Hồng nhạn lượn bay vùng nguyệt tỏ
Cá rồng đùa giỡn sóng lăn tăn
Đầm vắng chìm mơ hoa rụng khắp
Nửa mùa xuân hết vẫn loay quay
Sông vẫn xuôi dòng xuân sắp cạn
Bóng trăng lờ lững ngã về tây
Trăng lẫn màn sương trên mặt biển
Ngàn xa Kiệt Thạch với Tiêu Tương
Sáng vợi thâm tình thương mấy kẻ
Hàng cây còn đợi bóng trăng nương
- Dịch song thất lục bát
Con nước triều lên ngang mặt biển
Trăng lên từ biển chuyển theo triều
Lung linh sóng dợn trăng dìu
Nơi nào sông chẳng trải điều đón trăng
Sông uốn lượn miền giăng hương lạ
Trăng sáng ngời móc tỏa rừng hoa
Mặt sông sương đọng giao thoa
Ánh trăng bãi cát chan hòa quyện nhau
Sông với trời chung màu không bụi
Vầng trăng nhìn theo dõi tầng không
Ai nhìn trước phía đầu sông
Có nghe trăng sáng dỗ hồng thế nhân
Nhân sinh mãi không ngừng để nghỉ
Sông trăng hoài vạn kỷ còn nguyên
Ai người biết sẽ hữu duyên
Sông dài nước chảy triền miên xuôi dòng
Vầng mây trắng thong dong một dải
Bến Thanh Phong vẫn mải ôm sầu
Con thuyền du tử về đâu
Nàng cô phụ ngắm nguyệt lầu nhớ thương
Thương lầu cao trăng dường lởn vởn
Chiếu đài gương vọng tưởng người đi
Cuốn rèm ngọc vẫn không lê
Chiếu chày đá giặt cũng về chỗ xưa
Cùng ngắm trăng tìm chưa thể thấy
Ngẫm ước cùng bước nhảy tung tăng
Nhạn hồng lượn dưới vùng trăng
Cá rồng giỡn sóng lăn tăn biệt mù
Đêm mơ thấy đầm khô hoa rụng
Nửa xuân rồi chẳng vững gì hơn
Xuôi dòng sông sắp cạn xuân
Trăng tà đang ngã theo dần về tây
Trăng chìm lẫn sương dày trên biển
Kiệt Thạch đường khó đến Tiêu Tương
Tình về được mấy người thương
Sông chờ cây đợi trăng nương bóng tìm
Mai Thắng (230920)
--------------------------
★ Bài sưu tầm của Đỗ Chiêu Đức
Góc Đường Thi :
XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ.
TRƯƠNG NHƯỢC HƯ 張若虛 (Khoảng 660-720), người đất Dương Châu (thuộc tỉnh Giang Tô hiện nay) là thi nhân nổi tiếng đời Đường. Từng giữ chức Binh Tào ở Đoái Châu, cùng với Hạ Tri Chương, Trương Húc và Bao Dung hợp xưng là "Ngô Trung Tứ Sĩ 吳中四士". Trong Toàn Đường Thi Tập chỉ còn chép lại có 2 bài thơ của Trương Nhược Hư mà thôi : Bài nầy và bài "Đại Đáp Khuê Mộng Hoàn 代答閨夢還". Riêng bài "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ 春江花月夜" là bài thơ được đánh giá là "Bài thơ Thất ngôn trường thiên hay nhất ở thời buổi Thịnh Đường". Ta hãy cùng đọc bài thơ nầy nhé !
* Nguyên bản và phiên âm
春江花月夜 XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ
春江潮水連海平, 1. Xuân giang triều thủy liên hải bình,
海上明月共潮生。 Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
灩灩隨波千萬裏, Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,
何處春江無月明!? Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh !?
江流宛轉繞芳甸, 2. Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,
月照花林皆似霰; Nguyệt chiếu hoa lâm giai tự tán;
空裏流霜不覺飛, Không lý lưu sương bất giác phi,
汀上白沙看不見。 Thinh thượng bạch sa khan bất kiến.
江天一色無纖塵, 3. Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
皎皎空中孤月輪。 Giảo giảo không trung cô nguyệt luân.
江畔何人初見月? Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt ?
江月何年初照人? Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân ?
人生代代無窮已, 4. Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
江月年年望相似。 Giang nguyệt niên niên vọng tương tự.
不知江月待何人, Bất tri giang nguyệt đãi hà nhân,
但見長江送流水。 Đản kiến trường giang tống lưu thủy.
白雲一片去悠悠, 5. Bạch vân nhất phiến khứ du du,
青楓浦上不勝愁。 Thanh phong phố thượng bất thắng sầu.
誰家今夜扁舟子? Thùy gia kim dạ biển chu tử ?
何處相思明月樓? Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu ?
可憐樓上月徘徊, 6. Khả lân lâu thượng nguyệt bồi hồi,
應照離人妝鏡臺。 Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.
玉戶簾中卷不去, Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,
搗衣砧上拂還來。 Đảo y châm thượng phất hoàn lai.
此時相望不相聞, 7. Thử thời tương vọng bất tương văn,
願逐月華流照君。 Nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
鴻雁長飛光不度, Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
魚龍潛躍水成文。 Ngư long tiềm diệu thủy thành văn.
昨夜閒潭夢落花, 8. Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
可憐春半不還家。 Khả lân xuân bán bất hoàn gia.
江水流春去欲盡, Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,
江潭落月復西斜。 Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
斜月沉沉藏海霧, 9. Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
碣石瀟湘無限路。 Kiệt thạch tiêu tương vô hạn lộ.
不知乘月幾人歸, Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân quy,
落月搖情滿江樹。 Lạc nguyệt diêu tình mãn giang thọ.
* Chú thích :
- Xuất xứ của bài thơ XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ 春江花月夜 : Vốn là tên của một ca khúc nổi tiếng của đất Ngô, tương truyền là do Trần Hậu Chúa của Nam Triều làm ra, Bản từ gốc đã thất truyền. Theo Cựu Đường Thư, thì "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ", "Ngọc Thụ Hậu Đình Hoa", "Đường Đường"... đều do Trần Thúc Bảo Hậu Chúa cùng các nữ học sĩ trong cung sáng tác và các triều thần hòa thành thơ, rồi Thái Nhạc Lệnh là Hà Tư chọn những bài từ hoa lệ mà phổ thành ca khúc nầy. Sau Tùy Dương Đế cũng có sáng tác qua từ điệu nầy. Trong "Nhạc Phủ Thi Tập 樂府詩集" quyển thứ 47 có chép lại 7 khúc hát với từ điệu "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ", trong đó có 2 bài là của Tùy Dương Đế. Bài thơ "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ" của Trương Nhược Hư cũng làm theo đề từ nầy, nhưng đã khác với các khúc điệu trước đây, nhưng lại là bài thơ nổi tiếng nhất trong các bài đề từ cùng tên.
- Diễm Diễm 灩灩 :Sóng nước chập chờn lắp loáng.
- Phương Điện 芳甸 :PHƯƠNG là Mùi thơm của Hoa cỏ. ĐIỆN là Đất ngoài đồng trống; nên PHƯƠNG ĐIỆN là Cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ.
- Tán 霰 :là Mưa đá thật nhỏ, những hạt nước trắng tinh trông thật tinh khiết dưới ánh trăng.
- Lưu Sương 流霜 :Không phải là sương lưu động, mà là những hạt sương như những làn tuyết mỏng bay bay dưới ánh trăng mờ ảo mông lung.
- Thinh 汀 :Bãi cát hay những cồn cát nổi lên ở trên sông.
- Tiêm Trần 纖塵 :TIÊM là Mịn màng, TRẦN là Bụi bặm; nên TIÊM TRẦN là những hạt bụi thât nhỏ thật mịn.
- Nguyệt Luân 月輪 :LUÂN là cái bánh xe, nên NGUYỆT LUÂN chỉ Vầng trăng tròn như là cái bánh xe. Trăng thật tròn.
- Cùng Dĩ 窮已 :là Cùng tận, là Hết mức.
- Câu "Giang nguyệt niên niên CHỈ tương tự 江月年年只相似:Còn có một dị bản là “Giang nguyệt niên niên VỌNG tương tự 江月年年望相似”。
- Đản Kiến 但見 :Chỉ thấy, Chỉ thấy là...
- Du Du 悠悠 :là Xa xôi diệu vợi.
- Thanh Phong Phố 青楓浦 :PHỐ là Bến nước, nên THANH PHONG PHỐ là Bến nước Thanh Phong ở tỉnh Hồ Nam hiện nay. Ở đây phiếm chỉ chỗ ở của người du tử.
- Phố Thượng 浦上:là Trên bến nước, là Bên bờ sông. Câu nầy lấy ý từ bài Cửu Ca của Khuất Nguyên《屈原 九歌》:“Tử giao thủ hề đông hành, Tống mỹ nhân hề nam phố 子交手兮東行,送美人兮南浦”. Hai câu thơ trên hàm ý chia tay giả biệt : Nắm tay giả biệt về đông,/ Đưa người nam phố cho lòng ngẩn ngơ.
- Biển Chu Tử 扁舟子 :là Chiếc thuyền con, ý chỉ phiêu bạt như người du tử.
- Minh Nguyệt Lâu 明月樓 :là Lầu trăng sáng, chỉ sự nhớ nhung của người cô phụ, theo như bài thơ "Thất Ai Thi" của Tào Thực đời Tấn
曹植《七哀詩》: 明月照高樓 Minh nguyệt chiếu cao lâu // 流光正徘徊 Lưu quang chánh bồi hồi // 上有愁思婦 Thượng hữu sầu tư phụ // 悲嘆有餘哀! Bi thán hữu dư ai! // , có nghĩa : Lầu cao trăng chiếu mênh mông, / Ánh vàng bàng bạc cho lòng ngẩn ngơ. /Cô đơn thiếu phụ bơ phờ, /Tiếng than não nuột thẫn thờ bi ai !
- Ly Nhân 離人 :Những người ly biệt, ở đây chỉ người cô phụ xa chồng.
- Trang Kính Đài 妝鏡台 :Cái đài gương, cái giá gương để trước bàn trang điểm, chỉ chung Bàn Phấn của qúy bà qúy cô.
- Ngọc Hộ 玉戶 :Cửa có dát ngọc, chỉ các lâu đài cao sang hoa lệ.
- Đảo Y Châm 搗衣砧 :Cái chày bằng đá ngày xưa dùng để giặt giũ.
- Tương Vọng 相望...Tương Văn 相聞 :Nhìn nhau... Nghe thấy nhau.
- Trục 逐 :Rượt theo, đuổi theo.
- Nhàn Đàm 閒潭 :chỉ Đầm nước yên tịnh phẵng lặng.
- Phục Tây Tà 復西斜 :Lại nghiêng ngã về tây.
- Tiêu Tương 瀟湘 : chỉ 2 con sông Tương Giang và Tiêu Thủy ở tỉnh Hồ Nam hiện nay.
- Kiệt Thạch 碣石 : Hòn đá đứng trơ trọi một mình, tên núi ở tỉnh Hà Bắc hiện nay, nên KIỆT THẠCH và TIÊU TƯƠNG : Một ở bắc một ở nam, chỉ đường xá xa xôi khó thể gặp nhau.
- Vô Hạn Lộ 無限路 :Đường xá không có giới hạn, chỉ xa xôi vô cùng.
- Thừa Nguyệt 乘月 :Thừa lúc ánh trăng sáng, nhân lúc sáng trăng.
- Diêu Tình 搖情 :Tình cảm dao động, chỉ xúc động tâm tình.
* Nghĩa bài thơ :
Đêm Hoa Nguyệt Trên Sông Xuân
Thế nước thủy triều của mùa xuân dào dạt hòa cùng nước biển liền thành một dãy, một vầng trăng mọc lên từ mặt biển như cùng trào dâng với nước thủy triều. Ánh trăng sáng chiếu trên sông xuân gợn sóng lắp loáng cả muôn vạn dặm. Không có chỗ nào trên sông là không có ánh sáng trăng chiếu đến. Nước sông uốn khúc chảy quanh cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ, ánh trăng thì rải đầy trên rừng cây lắp lánh hạt móc sa.
Ánh trăng sáng mông lung như sương bay bay phất phơ khắp nơi. Bãi cát trắng xóa hòa cùng ánh trăng trong làm ta không còn phân biệt được cát trắng hay trăng trong. Sông và trời như liền làm một không chút bụi trần, còn vầng trăng thì vẫn vằng vặc treo lơ lửng trên bầu trời. Bên dòng sông ai là người thấy trăng mọc trước nhất ? Còn vầng trăng trên sông thì năm nào mới bắt đầu chiếu ánh sáng cho người ? Đời người thì đời nầy qua đời khác nối tiếp nhau không dứt, còn vầng trăng trên sông thì năm nầy qua năm nọ cũng vẫn như thế mà thôi ! Không biết là vầng trăng trên sông đang chờ đợi ai đây, chỉ thấy nước sông trường giang cứ không ngừng trôi chảy mãi.
Người du tử như đám mây trắng vằng vặc bay mãi bay đi, còn người cô phụ ở lại trên bến Thanh Phong thì cứ sầu hoài sầu mãi. Chàng du tử nhà ai đêm nay còn thả một con thuyền nhỏ phiêu bạt trên sông ? Và nơi nào có nàng cô phụ đang ngắm trăng trên lầu mà thương nhớ ? Khá thương thay ánh trăng cứ lởn vởn mãi trên lầu, lẽ ra phải chiếu vào bàn trang điểm của kẻ đã đi xa. Ánh trăng chiếu vào rèm ngọc của người cô phụ cuốn cũng không đi, chiếu trên chiếc chày đá giặc giũ phủi cũng không được. Đang lúc này cả hai đang cùng nhìn ngắm trăng nhưng lại cùng không nghe thấy tiếng của nhau. Mong ước rằng sẽ được như ánh trăng vượt ngàn để soi rọi cho nhau. Chim hồng nhạn không ngừng bay lượn, nhưng vẫn không bay ra khỏi được ánh trăng mênh mông vô bờ. Vầng trăng chiếu trên mặt sông, rồng cá dưới nước như cũng đang quẫy đuôi làm nổi lên những gợn sóng lăn tăn.(Ý muốn nói, bóng chim tăm cá gì đều bặc vô âm tín). Hôm qua mơ thấy hoa rụng bên đầm nước vắng lặng, chỉ tiếc là mùa xuân đã đi qua một nửa rồi mà vẫn còn chưa được về quê.
Nước sông xuân cứ chảy mãi không thôi như mùa xuân sắp tàn, và bóng trăng trong đầm nước cũng sắp ngã về hướng tây. Trăng tàn dần dần chìm xuống trong sương mờ trên biển, những tảng đá chơ vơ trên núi Kiệt Thạch miền bắc và hai dòng sông Tiêu Tương ở miền nam xa cách nhau ngàn trùng diệu dợi. Không biết đã có những ai nhân vầng trăng sáng nầy mà về lại quê nhà, chỉ có ánh trăng tà sắp lặn mới biết được cái ly tình kia nên rải ánh trăng lên khắp cả các rừng cây ven sông !...
Cả bài thơ xoay quanh 5 chủ đề của cái tựa là XUÂN, GIANG, HOA, NGUYỆT và DẠ để thể hiện cái đẹp của đêm trăng trên sông xuân với hoa thơm cỏ đẹp trong đêm làm rung động lòng người. Cả bài theo tuần tự của cảnh trí đưa đến triết lý rồi biểu hiện của tình cảm biệt ly... Cảnh, Lý, Tình cứ lần lượt bày ra trước mắt người đọc : Cảnh sáng trăng đẹp đẽ nên thơ trên dòng sông xuân, cái cảm khái phát sinh khi đối diện với cảnh trí đẹp đẽ nên thơ nầy và cuối cùng lồng vào cái nỗi niềm biệt ly nhung nhớ của người cô phụ và kẻ lãng tử giang hồ. Với thủ pháp trực khởi thi nhân đã vào đề bằng cách tả ngay cảnh đẹp đẽ nên thơ của vầng trăng mới mọc lên trên sông biển bằng "Giang triều liên hải, nguyệt cộng triều sinh 江潮连海,月共潮生 (nước sông mênh mông liền với biển cả và vầng trăng nương theo sóng nước mà mọc lên)... rồi kết thúc bằng cảnh trăng tà sắp lặn khi đêm đã gần tàn trên sông nước "Lạc nguyệt diêu tình mãn giang thọ 落月搖情滿江樹". Trăng sắp rụng nhưng ánh trăng vẫn như còn trải đầy trên sông nước rừng cây...
* Diễn nôm :
XUÂN GIANG HOA NGUYỆT DẠ
Nước sông xuân biển liền bằng phẵng,
Trăng sáng như mọc thẳng từ sông,
Nhấp nhô lắp lánh mênh mông,
Nơi nào chẳng có trăng lồng dáng xuân.
Sông uốn khúc qua vùng cỏ lạ,
Trăng chiếu hoa lả chả sương rơi,
Sương bay bay khắp muôn nơi,
Mông lung bãi cát sáng ngời ánh trăng.
Trời liền sông trong ngần tựa bạc,
Một vầng trăng vằng vặc trên cao,
Ai người ngắm trước trăng nào ?
Trăng bên sông nước năm nào chiếu ai ?
Người nhân thế đổi thay kiếp kiếp,
Trăng năm năm vẫn tiệp một màu,
Trăng ơi, trăng đợi ai nào ?
Nước trường giang cứ dạt dào đêm đêm.
Như mây trắng trôi êm đi mãi,
Bến Thanh Phong cỏ ái lòng sầu,
Thuyền người du tử về đâu ?
Tương tư thiếu phụ bên lầu trăng soi.
Trăng bồi hồi vàng gieo ngấn nước,
Chiếu đài gương chênh chếch trăng treo,
Cuốn rèm trăng chẳng cuốn theo,
Tiếng chày giặt lụa càng gieo càng sầu.
Ngắm trăng ở hai đầu cùng lúc,
Cùng chẳng nghe cùng chẳng thấy nhau.
Trăng lồng nhạn mãi bay cao,
Cá rồng chìm nước âm hao mõi mòn.
Đêm qua mơ hoa còn chưa héo,
Muốn hồi gia sợ kẽo xuân đi.
Sông xuân nước chảy liền khi,
Đầm xuân trăng rụng khác gì nước trôi.
Trăng nghiêng nghiêng bồi hồi sương biển,
Bắc Nam kia vĩnh viễn hai đường,
Theo trăng mấy kẻ hồi hương,
Trăng tà ánh vẫn phủ sương cây rừng !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
--------------------------
@ Các bài dịch thơ tiêu biểu
"Xuân Giang Hoa Nguyệt Da 春江花月夜" là thi phẩm tiêu biểu cho thơ ca của buổi Sơ Đường bước vào thời kỳ Thịnh Đường. Bài thơ đã nêu lên cái đẹp thiên nhiên của đêm trăng sáng, cái ảo diệu của vầng trăng sáng đối với cuộc sống của nhân sinh, bao la của vũ trụ và khát vọng của tình yêu, mang lại cho người đọc cái lòng yêu cuộc sống và khẳng định lại cái giá trị, cái tác động của quang cảnh mùa xuân đã mang đến cho con người cái hơi thở, cái hy vọng và cái sức sống bồng bột mãnh liệt trong đêm trăng trên sông xuân. Bài thơ được đánh giá là 以孤篇壓全唐 Dĩ cô thiên áp toàn Đường (có nghĩa - chỉ có một bài thơ mà đè bẹp cả toàn Đường thi - ý muốn nói đây là bài thơ hay nhất của tất cả thơ đời Đường).
Danh sĩ đời Thanh Vương Khải Vận 王闓運 đánh giá là 孤篇横絕,竟為大家 cô thiên hoành tuyệt, cánh vi đại gia (có nghĩa - chỉ một bài thơ độc nhất tung hoành tuyệt đĩnh, là một đại gia trong thơ). Một học giả cận đại Văn Nhất Đa 聞一 多 đánh giá là : 詩中的詩,頂峰上的頂峰 Thi trung đích thi, đĩnh phong thượng đích đĩnh phong (có nghĩa - thơ ở trong thơ, đỉnh cao trên đỉnh cao).
* Bản dịch của Tản Đà
Đêm trăng hoa trên sông xuân
Sông xuân sáng nước liền ngang bể,
Vầng trăng trong mặt bể lên cao.
Ánh trăng theo sóng đẹp sao!
Sông xuân muôn dặm chỗ nào không trăng?
Dòng sông chảy quanh rừng hoa ngát,
Trăng soi hoa như tán trập trùng.
Sương bay chẳng biết trong không
Trên soi cát trắng nhìn không thấy gì.
Trời in nước một ly không bụi.
Mảnh trăng trong ròi rọi giữa trời.
Thấy trăng thoạt mới là ai?
Trăng sông thoạt mới soi người năm nao?
Người sinh mãi, kiếp nào cho biết,
Nhìn trăng sông năm hệt không sai.
Trăng sông chẳng biết soi ai,
Dưới trăng chỉ thấy sông dài nước trôi.
Đám mây trắng ngùi ngùi đi mãi,
Rặng phong xanh một dải sông sầu.
Đêm nay ai đó, ai đâu?
Chiếc thuyền để nhớ trên lầu trăng soi.
Trăng thờ thẫn nơi người xa ngóng,
Chốn đài gương tựa bóng thương ai.
Trong rèm cuốn chẳng đi thôi,
Trên bàn đập áo quét rồi lại ngay.
Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy,
Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.
Hồng bay, ánh sáng không màng,
Nước sâu cá quẫy chỉ càng vẩn tăm.
Đêm nọ giấc trong đầm hoa rữa,
Ai xa nhà xuân nửa còn chi!
Nước sông trôi mãi xuân đi,
Trăng tà lặn xuống bên kia cánh đầm.
Vầng trăng lặn êm chìm khói bể,
Đường bao xa non kệ sông Tương.
Về trăng mấy kẻ thừa lương,
Trăng chìm lay bóng đầy hàng cây sông.
--------------------
@ Bản dịch của nhóm thơ Vườn Thơ Thẩn
1. Bản dịch của Thầy Danh Hữu
Đêm xuân trên bến trăng hoa
Nước triều dâng sông xuân tràn biển,
Trăng theo dòng cũng tiến trên khơi.
Tỏa lên muôn dặm sóng nhồi,
Sông xuân đâu chẳng đầy trời trăng soi.
Bên đồi thơm dòng trôi uốn thác,
Ánh trăng gieo trắng toát rừng hoa.
Trông trời hết biết sương sa,
Bờ sông cát bạc nhận ra được nào.
Chẳng mảy bụi, một màu trời nước;
Mảnh trăng trôi sáng lướt không trung.
Gặp trăng? Ai trước bên dòng!
Năm nao trăng tới trên sông soi người?
Người sinh hóa đời đời chẳng hết,
Trăng trên sông giống hệt năm năm.
Biết ai trăng tới rọi thăm?
Sông Trường chỉ thấy đằm đằm ánh trôi!
Làn mây trắng nhẹ xuôi lờ lững,
Hàng phong xanh khiến những u sầu.
Đêm nay, thuyền nhỏ, ai đâu?!
Nơi nào mà nhớ một lầu đầy trăng?
Khá thương trăng trên tầng thắm đượm,
Chốn đài trang muốn ướm ly nhân.
Cuốn rèm, trăng chẳng dời chân;
Phủi chày đập áo cũng vầng trăng in.
Nay mong mãi mà tin chẳng thấy,
Muốn theo trăng đưa đẩy đến người,
Hồng nhạn bay, trăng chẳng rời,
Ngư long trồi lặn, nước cơi sóng ngầm.
Đêm qua mộng trên đầm hoa rụng,
Nửa chừng xuân mà cũng chưa về.
Nước sông trôi hết xuân kề,
Trên đầm, trăng đã bóng rề qua tây.
Trăng xế bóng lẫn rày sương biển,
Thạch, Tương kia đường đến bao xa !?
Theo trăng, mấy kẻ về nhà ?
Tình cây man mác, trăng tà bến sông.
Danh Hữu dịch
(Saigon, 1978)
------------------
2. Bản Dịch của Thầy Mai Lộc
Mặt biển sông ngang bằng triều dậy ,
Triều vừa dâng đã thấy trăng nhô .
Dặm ngàn loang loáng sóng xô ,
Sông xuân đâu chẳng trăng tô sáng ngời.
Sông lượn quanh cồn hương thơm ngát ,
Sương vờn hoa như hạt tuyết rây .
Tầng không, sương tưởng không bay ,
Bãi sông cát trắng nhìn hoài chẳng ra .
Nước với trời giao hòa trong vắt ,
Không gian ngời vằng vặc trăng cao .
Ai người trăng thấy thoạt đầu ?
Trăng sông người chiếu năm nào trước tiên ?
Đời người cứ triền miên sinh sản ,
Năm rồi năm trăng vẫn không thay .
Chẳng hay trăng nước soi ai ?
Dưới trăng chỉ thấy chảy hoài trường giang .
Áng mây trắng lang thang bay mãi ,
Răng phong xanh lải rải giăng sầu .
Đêm nay thuyền nhỏ về đâu ?
Tương tư ai đứng trên lầu nhìn trăng .
Thương cảm người , lầu trăng lưu luyến ,
Chiếu gương đài trăng tiễn người đi .
Cuốn rèm trăng vẫn ngồi lì ,
Lau rồi phiến đá trăng si lại về .
Giờ cùng ngắm , không nghe , không thấy ,
Nguyện cùng trăng bám lấy soi chàng .
Nhạn hồng không gậm trăng tan ,
Cá, rồng quậy nhảy khiến làn nước chao .
Đêm qua mộng lao xao hoa rụng ,
Nửa đời xuân , người cũng chưa về .
Nước trôi như giục xuân kề ,
Bên đoài trăng lặn lê thê bãi dài .
Lẩn trong sương trăng tà mất biệt ,
Dòng Tiêu Tương non Kiệt xa vời .
Theo trăng về biết mấy người ?
Cây sông não nuột rã rời tàn trăng .
Mailoc phỏng dịch
10-24-14
---------------------
3. Bản dịch của Thầy Phạm Khắc Trí (5 khổ)
ĐÊM HOA TRĂNG TRÊN SÔNG XUÂN
Con nước chiều xuân tràn mặt biển ,
Trăng lên cùng lúc thủy triều dâng.
Tràn lan sáng rực , trăng cùng khắp ,
Đâu biết sóng xuân nổi mấy tầng.
Dòng nước lượn quanh cồn đất đẹp ,
Rừng hoa trăng giãi tuyết ngàn pha.
Trong không sương đọng lung linh ngọc ,
Cát trắng nhạt nhòa bờ bãi xa.
Trời nước tinh khôi không mảy bụi ,
Trăng cao vời vợi sáng trong ngần.
Ai người bến cũ thấy trăng trước ,
Trăng sáng năm nào soi cố nhân.
Nhân sinh sau trước vô cùng tận ,
Trăng nước muôn đời vẫn thế thôi.
Không biết trăng tròn ai ngóng đợi ,
Chỉ thấy sông dài nước chảy xuôi.
Mây bạc ngang trời trôi lãng đãng ,
Phong xanh trên bến rũ u sầu .
Đêm nay ai đó trong thuyền nhỏ ,
Biết gửi về đâu nỗi nhớ nhau.
PKT 10/10/2014
Phụ Chú : Tác giả bài Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ này, là 1 trong 4 danh sĩ đất Ngô ( Hạ Tri Chương , Trương Húc, Bao Dung , và Trương Nhựơc Hư) , đời Sơ Đường (618 - 713). Toàn bài , thuộc thể Thơ Thất Ngôn Cổ Phong , gồm 9 liên , mỗi liên 4 câu. Đêm Hoa Trăng Trên Sông Xuân trên đây chỉ được chuyển dịch ý từ 5 liên đầu.
Lời Thêm : Toàn bài XGHND của TNH là 1 danh tác, được người đời ca tụng là "Thơ của những bài thơ ". Và, cũng là mối tình đầu của tôi với Đường Thi , hơn 10 năm trước đây. "Ôi cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" , gặp là mê ngay , tình cảm xúc động chất ngất , nhưng tiếc rằng lúc bấy giờ vốn liếng hiểu biết rất hạn hẹp, không đủ khả năng để diễn tả thành lời. Cho mãi đến bây giờ , vẫn vậy , mà tình thì dường như đã bị lão hóa ,phôi pha , vẫn nói chẳng đủ lời, vẫn nói chẳng nên lời. Một chút ngâm ngùi. Gửi đi để mọi người mà tôi hằng quí mến ,đọc rồi cườI với nhau cho.vui thôi. Cầu chúc an lành. PKT 10/10/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét