24 tháng 5 2019

Vần Thơ

<R02~Vần Thơ>

Núi Nga Mi


VẦN THƠ

★★★

MỤC LỤC
1. KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT
    1.1. Khái niệm về thơ, vần thơ
    1.2. Khái niệm về ngữ âm
2. ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT
    2.1. Âm đầu
    2.2. Âm đệm
    2.3. Âm chính
    2.4. Âm cuối
    2.5. Thanh điệu
3. CẤU TRÚC ÂM TIẾT
    3.1. Cấu trúc vần, vần cái 
    3.2. Bảng vần cái
    3.3. Tương quan giữa các vần cái       
    3.4. Tính vần điệu của vần thơ
   
     
★★★

1. KHÁI NIỆM TỔNG QUÁT 

1.1. Khái niệm về thơ, vần thơ

        Thơ là một loại hình văn học diễn tả ý tưởng của con người về một chủ đề nhất định mà tác giả muốn trình bày.
        Cũng như Văn, Thơ xuất phát từ ngôn ngữ nói của con người, khởi nguồn có tính tự phát bằng các từ, ngữ được trau chuốt và phát triển thành câu, bài; nhưng Thơ khác Văn vì có tính chương khúc, tính vần điệu theo quy định của luật thơ;
        Tính chương khúc thể hiện ở số từ, số câu quy định việc hình thành bài thơ; tính vần điệu hình thành một bộ phận cấu trúc gọi là bộ vần, là một tổ hợp từ giữ vai trò mối tương quan về mặt ngôn từ và vị trí của từ gọi là từ vần hay vần thơ;
        Về bản chất, mối tương quan của các vần thơ căn cứ vào cấu trúc âm tiết của các vần thơ đó, tức là thuộc lĩnh vực chuyên ngành ngữ âm học.

1.2. Khái niệm về ngữ âm học

       
Ngữ âm học (Phonectics) là một chuyên ngành ngôn ngữ học nghiên cứu tiếng nói con người. Tiếng nói con người là một loại âm thanh ngôn ngữ do bộ máy phát âm của con người tạo ra. Mỗi cộng đồng có một tiếng nói riêng, tiếng nói của người Việt Nam là tiếng Việt; 
        Tiếng Việt là toàn bộ các câu nói bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, không biến hình và có thanh điệu; 
        Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên ngành ngữ âm học, đơn vị ngữ âm của Tiếng Việt là tiếng hay từ thể hiện dưới dạng âm tiết. Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất của lời nói; 
        Âm tiết gồm nhiều thành tố, cấu trúc theo các tính năng riêng biệt để hình thành các vần thơ, tính vần điệu của bài thơ; 
        Phần diễn giải cách trình bày có liên quan đến âm tiết sẽ dùng phiên âm quốc tế IPA đặt trong ký hiệu /…/, khi cần giải thích cho rõ thêm sẽ dùng thêm chữ viết tiếng Việt, có thể đặt trong ký hiệu […]

★★★

2. ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT

       Âm tiết (syllable) tiếng Việt có 5 thành tố (component): 1) âm đầu, 2) âm đệm, 3) âm chính, 4) âm cuối, 5) thanh điệu;
       
2.1. Âm đầu (initial sound)

        Âm đầu là âm đứng đầu âm tiết và bao giờ cũng là phụ âm (consonant) nên còn gọi là phụ âm đầu;
        Phụ âm đầu hình thành theo 2 yếu tố cấu âm: a) theo phương thức cấu âm: chia thành các nhóm đối lập tắt/xát, ồn/vang, hữu thanh/vô thanh; b) theo vị trí cấu âm: chia thành các nhóm phụ âm môi, phụ âm lưỡi: đầu lưỡi, mặt lưỡi, cuống lưỡi và phụ âm họng; 
        Âm đầu của âm tiết tiếng Việt hiện nay có số lượng là 21, và 1 phụ âm câm, không có chữ viết, gồm các âm như sau:
        1. âm /b/, chữ viết [b], ví dụ: bửu bối,
        2. âm /m/, chữ viết [m], ví dụ: may mắn,
        3. âm /f/, chữ viết [ph], ví dụ: phương pháp,
        4. âm /v/, chữ viết [v], ví dụ: vui vẻ,
        5. âm /t/, chữ viết [t], ví dụ: tư tưởng,
        6. âm /t’/, chữ viết [th], ví dụ: thơm tho,
        7. âm /d/, chữ viết [đ], ví dụ: đông đúc,
        8. âm /n/, chữ viết [n], ví dụ: non nước,
        9. âm /z/, chữ viết [d, gi], ví dụ: dành giật,
        10. âm /ʐ,/, chữ viết [r], ví dụ rành rẽ,
        11. âm /s/, chữ viết [x], ví dụ: xong xuôi,
        12. âm /ş/, chữ viết [s], ví dụ: sung sướng,
        13. âm /c/, chữ viết [ch], ví dụ: chuyên chế,
        14. âm /ʈ/, chữ viết [tr], ví dụ: trớ trêu,
        15. âm /ɲ/, chữ viết [nh], ví dụ: nho nhã,
        16. âm /l/, chữ viết [l], ví dụ: lặng lẽ,
        17. âm /k/, chữ viết [c, k, q], ví dụ: quá cao kều,
        18. âm /χ/, chữ viết [kh], ví dụ: không khí,
        19. âm /ŋ/, chữ viết [ng, ngh], ví dụ: ngốc nghếch,
        20. âm /ɣ/, chữ viết [g, gh], ví dụ: gập ghềnh,
        21. âm /h/, chữ viết [h], ví dụ: hiền hậu,
        22. âm câm /?/, không có chữ viết, ví dụ: yên ổn. 
        
2.2. Âm đệm (medial sound)

        
Âm đệm là âm xuất hiện giữa âm đầu và âm chính, là một bán âm (semi wovel) có cấu tạo như nguyên âm /u/ nhưng chỉ có chức năng tu chỉnh chứ không tạo nên âm sắc của âm tiết. Nói cách khác, âm đệm là một hiện tượng tròn môi của phụ âm đầu hoặc tổ hợp âm chính và âm cuối;
        Tiếng Việt có duy nhất 1 âm đệm /w/ chữ viết ghi là [u] hay [o], thường xuất hiện hạn chế trong một số từ tiếng Việt;

2.3. Âm chính (nuclear sound)

        Âm chính là âm làm trung tâm của âm tiết và bao giờ cũng là nguyên âm (wovel), là thành phần không thể thiếu của âm tiết;
        Âm chính của âm tiết tiếng Việt có 11 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi và phân làm 3 nhóm nguyên âm (nhóm NA):
        a) Nhóm NA1, là nhóm NA hàng trước không tròn môi, có 3 nguyên âm đơn /i, e, ɛ/, chữ viết [i, ê, e] và 1 nguyên âm đôi /ie/, chữ viết [ia-iê, ya-yê];
        b) Nhóm NA2: là nhóm NA hàng sau tròn môi, có 3 nguyên âm đơn /u, o, ɔ/, chữ viết [u, ô, o] và 1 nguyên âm đôi /uo/, chữ viết [ua-uô];
        c) Nhóm NA3: là nhóm NA hàng sau không tròn môi, có 5 nguyên âm đơn /ɨ, ə, ə̆, a, ă/, chữ viết [ư, ơ, â, a, ă] và 1 nguyên âm đôi /ɨə/, chữ viết [ưa-ươ]. Trong đó, 2 nguyên âm đơn /ə̆, ă/ là thể ngắn của /ə, a/, và ký hiệu /ə-ə̆/, /a-ă/ là ghi chung cho trường hợp dài ngắn của các âm này. 

2.4. Âm cuối (final sound)

        Âm cuối là âm đứng cuối vần, cuối âm tiết;
        Âm cuối của âm tiết tiếng Việt có số lượng là 8, chia thành 2 nhóm: - Nhóm BAC: là nhóm có 2 bán âm /j, w/, chữ viết [i-y, o-u]; - Nhóm PAC: là nhóm có 6 phụ âm là /m, n, ŋ, p, t, k/, chữ viết [m, n, ng-nh, p, t, c-k]; - Ngoài ra, cũng thường xuất hiện nhóm KAC: là nhóm không âm cuối;
        Âm cuối của âm tiết tiếng Việt có đặc tính mở khép cấu trúc âm tiết, nên  chia thành 4 kiểu âm tiết:
        1) Âm tiết mở: kiểu các vần cái không có âm cuối;
        2) Âm tiết hơi mở: kiểu các vần cái có âm cuối là 2 bán âm /j, w/;
        3) Âm tiết hơi khép: kiểu các vần cái có âm cuối là 3 phụ âm /m, n, ŋ/;
        4) Âm tiết khép: kiểu các vần cái có âm cuối là 3 phụ âm /p, t, k/.
 
2.5. Thanh điệu (tone)

        Thanh điệu là sự nâng cao hay hạ thấp giọng nói trong âm tiết;
        Thanh điệu thể hiện trên toàn âm tiết bằng các dấu thanh: ngang “không dấu“, sắc “/”, huyền “\”, nặng “.”, hỏi “?”, ngã”~” đặt ngay trên âm chính chữ viết (trừ một số ngoại lệ có quy định khác, hoặc là thanh ngang không thể hiện dấu thanh, hoặc là thanh nặng đặt dưới âm chính);
       Thanh điệu có 6 dấu thanh, chia thành 2 loại: - Thanh bằng, là các thanh điệu mang dấu thanh ngang, huyền; - Thanh trắc, là các thanh điệu mang dấu thanh sắc, nặng, ngã, hỏi;

3. CẤU TRÚC ÂM TIẾT  

3.1. Cấu trúc vần, vần cái
 
        Ở dạng đầy đủ nhất, âm tiết tiếng Việt có 3 bộ phận cấu trúc: phụ âm đầu, vần, thanh điệu, kết hợp theo sơ đồ sau đây: 
       

Âm

đầu

VẦN

Thanh

điệu

Âm đệm

Âm chính

Âm cuối

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

       Bộ phận phụ âm đầu do thành tố âm đầu đảm nhiệm, bộ phận thanh điệu do thành tố thanh điệu đảm nhiệm, riêng bộ phận vần là một tổ hợp 3 thành tố: âm đệm, âm chính và âm cuối;
        Vì âm đệm chỉ có chức năng tu chỉnh âm sắc để tạo ra hiện tượng tròn môi của phụ âm đầu hoặc của tổ hợp âm chính và âm cuối, nên tổ hợp âm chính và âm cuối được coi là thành phần cốt lõi của bộ phận vần và được gọi là vần cái (tiếng Hán Việt gọi là vận căn).

3.2. Bảng vần cái

        Bảng vần cái được minh họa theo hình thức: - âm chính xếp theo số mã hàng, chia thành 3 nhóm nguyên âm NA1, NA2 và NA3; - âm cuối xếp theo số mã cột, chia thành 3 nhóm âm cuối KAC, BAC và PAC; - mỗi ô (cell) gọi là một ô vần cái gồm 1 âm chính và 1 âm cuối, trừ nhóm KAC chỉ có âm chính mà không có âm cuối. Tất cả được trình bày theo sơ đồ dưới đây:

Số mã

Âm IPA

Nhóm KAC

Nhóm BAC /j/ và /w/

Nhóm PAC
/m, n, ŋ/ và /p, t, k/

 

 

1

2

3

4

5

6

7

8

9

1

/i/

i

 

iu

im

in

inh

ip

it

ich

2

/e/

ê

 

êu

êm

ên

ênh

êp

êt

êch

3

/ε/

e

 

eo

em

en

anh

ep

et

ach

4

/ie/

ia

 

iêu

iêm

iên

iêng

iêp

iêt

iêc

5

/u/

u

ui

 

um

un

ung

up

ut

uc

6

/o/

ô

ôi

 

ôm

ôn

ông

ôp

ôt

ôc

7

/ɔ/

o

oi

 

om

on

ong

op

ot

oc

8

/uô/

uôi

 

uôm

uôn

uông

uôp

uôt

uôc

9

/ɨ/

ư

ưi

ưu

 

ưn

ưng

 

ưt

ưc

10

/ə/

ơ

ơi

ơu

ơm

ơn

 

ơp

ơt

 

11

/ə̆/

 

ây

âu

âm

ân

âng

âp

ât

âc

12

/a/

a

ai

ao

am

an

ang

ap

at

ac

13

/ă/

 

ay

au

ăm

ăn

ăng

ăp

ăt

ăc

14

/ɨə/

ươ

ươi

ươu

ươm

ươn

ương

ươp

ươt

ươc


3.3. Tương quan giữa các vần cái 

        - Vần thơ giữ vai trò liên thông âm điệu đặc trưng của thể thơ, thể hiện nơi bộ vần là bộ khung cấu trúc của bài thơ do luật thơ quy định. Mối tương quan giữa 2 vần thơ chính là hệ quả so sánh sự giống nhau và khác nhau của hoặc là âm chính, hoặc là âm cuối tức là vần cái của 2 vần thơ đó;
        - Khi so sánh 2 vần thơ cho kết quả:
        1) âm chính giống nhau, âm cuối giống nhau, thì mối tương quan này gọi là tương quan chính vận hay vần chính;
        2) âm chính khác nhau, âm cuối khác nhau, thì mối tương quan này gọi là tương quan lạc vận hay vần lạc;
        3) âm chính giống nhau, âm cuối khác nhau, hoặc là âm chính khác nhau, âm cuối giống nhau, thì mối tương quan này gọi là tương quan thông vận hay vần thông;
        - Khi so sánh 2 vần thơ về sự giống nhau hoặc khác nhau của âm chính hoặc âm cuối đó, đòi hỏi phải thỏa các điều kiện quy định cụ thể:
        1) các âm giống nhau phải là các âm duy nhất;
        2) các âm khác nhau phải là các âm cùng chung nhóm, hoặc là các âm tương ứng của 2 nhóm nguyên âm hàng sau thuộc nhóm NA2 và NA3.

3.4. Tính vần điệu của vần thơ

        Tính vần điệu của vần thơ được luật thơ quy định thành các loại vần:
        - Vần chính được xem như các loại vần chuẩn mực của bài thơ;
        - Vần thông có giá trị thấp hơn, nhưng có thể dùng thay cho vần chính;
        - Vần lạc có giá trị thấp nhất, không ràng buộc, như là không phải vần.

- Hết -

14 tháng 5 2019

Tặng huynh Thạch Hãn

<D.512><Giao Tiếp> 



TẶNG HUYNH THẠCH HÃN

(kỷ niệm ngày kết bạn facebook)

Cũng chỉ hai thằng thích mộng mơ
Hồn rong cõi tạm đuổi thương vờ
Lời ngâm tuổi hạc đầy da diết
Tiếng vọng xuân chiều khẽ vẩn vơ
Dệt những mùa yêu tràn cảm xúc
Cầu bao ý niệm thoả mong chờ
Chừ vui mấy thoảng khơi cùng tận
Tặng phẩm dâng đời khúc mỹ thơ.

Mai Thắng – 190513

---------------------------
★ Bài hoạ của Thạch Hãn

ẤM BỞI VẦN THƠ ANH & TÔI

Anh về ngã ấy buổi chiều mơ
Lối nhỏ mình tôi cũng vật vờ
Ngõ phố mây tràn con hẻm cuộn
Hiên nhà lá rụng gió trời vơ
Thầm mơ vẫn mẹ thềm xưa đón
Chợt hỏi còn em lối cũ chờ
Chỉ bấy nhiêu lòng nghe rạn vỡ
Nhưng đời lại ấm bởi vần thơ ./.

LCT 13/05/2019

Tiễn nhà thơ Phương Lê

<D.511~Tiễn Đưa> 



TIỄN BIỆT SƯ HUYNH PHƯƠNG LÊ

Kính cẩn đôi dòng biệt lão huynh
Hồn thơ nghĩa bạn kết bao tình
Mây Hồng sắc đậm cài treo ảnh
Cảnh hạ mưa buồn khóc tiễn linh
Cảm lỡ làng thương thời nhất vận
Tìm khuây khoả niệm thức vô hình
Mùa Sen Tháp rụng dần gương cỗi
Bước lạc đi về cõi hiển minh

Mai Thắng – 180511

Kết Chữ Ngây Khờ

<D.510~Thơ Vui>



KẾT CHỮ NGÂY KHỜ

(toán thi)

Vào yêu CHÍN mọng gửi câu chờ
TÁM cõi âm thầm thả mộng mơ
VẠN thuở tài hoa tình kiếp lỡ
NGÀN năm tự giác cảnh duyên hờ
Bày TRĂM mối chỉ thêu mành nhợ
Rảo CHỤC con đường gá nghĩa tơ
Để vẫn ĐÔI mình vương lấy nợ
Tìm nhau kết MỘT chữ ngây khờ.

Mai Thắng – 190508

------------------------------------------
★ Bài xướng của Thạch Hãn

BUỒN MUÔN THUỞ

Tuổi đã vào yêu CHÍN mộng chờ
Đêm choàng BỐN mặt cũng hoài mơ
Hồn đau VẠN kiếp thuyền hăm hở
Dạ khổ NGÀN NĂM bến hững hờ
Vỡ cả khoang lòng TRĂM mối nhợ
Rơi tràn mảnh gối CHỤC đường tơ
Mình HAI đứa vẫn buồn MUÔN thuở
Để vướng đời nhau MỘT chữ khờ./.

LCT 08/05/2017

---------------------------------------
★ Bài hoạ của Hữu Thiên (Nguyễn Lâm)

NỬA CUỘC ĐƯỜNG DUYÊN

(Toán thi )

Chiều xưa MỘT buổi hứa em chờ
Chửa được MƯƠI ngày gãy gánh mơ
VẠN ngã lòng trao vừa khép dở
NGÀN đêm dạ gửi đã buông hờ
Tình đan MỖI lúc dần xa nhợ
Mộng khởi ĐÔI lần cũng hết tơ
NỬA cuộc duyên buồn như gió rã
VÀI thu lạnh giá mảnh tim khờ..!

NL09/05/2019

Bóng chiều

<D.509><Thời Tiết-Khí Hậu>



BÓNG CHIỀU

Ảnh ráng phương đoài khẽ lịm rơi
Vầng mây tản vội cuối chân trời
Dòng trôi mặt sóng êm đềm trải
Nước đẩy con thuyền lặng lẽ bơi
Vẳng tiếng bờ xa bồng quãng nhạc
Hoà cung điệu lướt gẫm duyên đời
Về đâu ánh vợi chiều phiêu lãng
Vọng bấy ân tình cảm nghĩa khơi.

Mai Thắng – 190508

★ Bài xướng của Dung Nguyên

SÔNG CHIỀU

Nghiêng chiều giọt nắng khẽ khàng rơi
Đỏ thẫm màn mây tận cuối trời
Rực rỡ bên đầm hoa súng trổ
Âm thầm giữa khoảng mái chèo bơi
Câu hò ấm bổng ru miền hạ
Điệu ví nồng êm ủ nghĩa đời
Tĩnh lặng dòng sông màu trắng ảo
Cho nguồn xúc cảm dịu dàng khơi.

DUNG NGUYÊN
06/05/2019

Bồng Lai Tiên Cảnh

<C.029><Điển tích văn học> 
Đề tài: BỒNG LAI TIÊN CẢNH
Biên soạn: Đỗ Chiêu Đức 



    Kể từ đến cảnh BỒNG LAI,
    May thay đã trộm thấy người tiên cung

        Đó là hai câu thơ trong truyện Nôm Phan Trần, tả lúc Phan Sinh gặp lại Trần Kiều Liên đang tu trong chùa. BỒNG LAI là tên của một trong ba ngọn núi có tiên ở, ở ngoài biển đông, thường được dùng để chỉ chỗ ở của người đẹp như... tiên. Theo tích sau đây :

        Theo chương Thang Vấn trong sách Liệt Tử : Phía đông của Bột Hải, có một nơi vực sâu muôn trượng, gọi là Quy Khâu. Tất cà những sông ngòi ao hồ của đất liền đều chảy về nơi nầy. Tương truyền là mực nước ở nơi đây không lên không xuống, cho dù tất cả sông biển đều đổ về đây. 

        Trên mặt nước mênh mông ở đây, có 5 ngọn núi thần đang trôi nổi, đó chính là : “Đại Dư” 岱輿, “Viên Kiệu” 員嶠, “Phương Hồ” 方壺, “Doanh Châu” 瀛洲, và “Bồng Lai” 蓬萊. Mỗi ngọn núi cao và rộng khoảng 3 vạn dặm, phần bằng phẵng trên đỉnh núi cũng hơn 9 ngàn dặm. Các hòn núi nầy cách nhau khoảng 7 vạn dặm. Trên mỗi núi đều có lâu đài lầu các nguy nga xây toàn bằng hoàng kim và bạch ngọc. Hoa thơm cỏ đẹp, cây trái thơm ngon bốn mùa không dứt, ăn vào thơm tho mồm miệng và trường sinh bất tử. Năm ngọn núi nầy đều là nơi ở của các người tiên. Họ thường bay qua bay lại trên năm ngọn núi nầy mà vui chơi để tiêu dao ngày tháng. Có một điều làm họ không được thoải mái là 5 ngọn núi nầy như là 5 cái hồ lô lớn trôi nổi trên biển cả mênh mông, khiến họ đi lại không được thoải mái và như ý. Nên họ cùng thỉnh cầu với Ngọc Hoàng Thượng Đế giải quyết cho vấn nạn nầy. Ngọc Đế bèn ra lệnh cho thần ở Bắc Hải là Ngung Cường để tìm phương giải quyết. Ngung Cường bèn điều 15 con cự Ngao ( Ba ba lớn ) chia làm 5 nhóm, mỗi nhóm 3 con chịu trách nhiệm giữ lấy một ngọn núi. Ba con ba ba khổng lồ, một con lặn xuống biển đội núi lên, hai con còn lại giữ hai bên cho núi đừng di chuyển nữa. Phân công là cứ 6 vạn năm sẽ thay phiên một lần. Vì thế mà 5 ngọn núi thần tiên nầy được cố định không còn nổi trôi di chuyển trên biển đông nữa.

        Nhưng chẳng bao lâu sau, có một người của nước Long Bá ( nước của người Khổng lồ ) đến nơi nầy, thân hình của hắn cao vút tận mây xanh, hắn bước đi trong biển đông như đi trong ao cá sau vườn; chỉ cần vài ba bước là hắn đã đi khắp cả 5 ngọn núi thần tiên. Hắn phát hiện trong nước có cá ngao (Ba ba) lớn, bèn lấy cần móc mồi câu, câu một hơi 6 con ngao lớn, quảy lên vai vác về nhà. Nên hai hòn núi tiên Đại Dư và Viên Kiệu, bị mất đi 6 con ngao, không có gì cầm giữ lại, nên trôi dạt lên bắc cực và chìm xuống biển mất dạng. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết tin, cả giận, bèn thi triển thần uy, làm cho người nước Long Bá nhỏ lại chỉ cao hơn người thường một cái đầu mà thôi.

Người Long Bá câu Ngao

        Đó là truyền thuyết trong Sơn Hải Kinh 《山海经》và các sách xưa cũng có ghi lại chuyện năm tiên đảo bị chìm hết hai, nên chỉ còn lại có “Phương Hồ” 方壺, “Doanh Châu” 瀛洲, và “Bồng Lai” 蓬萊. Tục gọi là " Bồng Lai Tam Đảo 蓬莱三岛 ". Vì là nơi của tiên ở nên còn gọi là " Bồng Lai Tiên Cảnh 蓬莱仙境 " để chỉ cảnh đẹp của tiên giới mà trên đời không thể có được. Sở dĩ Bồng lai nổi tiếng hơn hai tiên đảo kia là vì đó là nơi ở của Bát Tiên trong sự tích Bát Tiên Quá Hải. Trong tác phẩm Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh, khi luận về chữ VUI, ông Sãi đã nói với bà Vãi rằng :
    Non BỒNG LAI bước tới, sãi vui với Bát Tiên,
    Núi Thương Lãnh tìm lên, sãi vui cùng Tứ Hạo.

        BỒNG LAI còn được gọi là BỒNG CHÂU 蓬洲. Châu là phần đất nổi trên mặt biển, nên gọi tiên đảo Bồng Lai là Bồng Châu, như trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, đoạn nói về Công chúa Tiên Dung và Chữ Đồng Tử có câu :
    Non sông đã trót lời thề,
    Hai người một phút hóa về BỒNG CHÂU.

        Không gọi là Bồng Châu thì lại gọi là BỒNG HỒ 蓬壺, Hồ là cái Hồ Lô đựng rượu, vì tiên đảo Bồng Lai trôi nổi trên biển Đông giống như là một chiếc Hồ Lô khổng lồ, nên còn gọi là BỒNG HỒ như trong Lâm Tuyền Kỳ Ngộ :
    BỒNG HỒ, Lãng Uyển xưa hằng có,
    Độ ấy nhân gian dễ mấy đời.

        Và vì Bồng Lai là một ngọn núi, nên còn gọi là BỒNG SƠN 蓬山. Như trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :
    Tấc gang gác khóa lầu then,
    BỒNG SƠN rằng cách muôn nghìn chẳng sai.

        Và vì là một tiên đảo giữa biển, nên còn được gọi là BỒNG ĐẢO 蓬島. Như trong thơ của cụ Nguyễn Trãi :
    Thuốc tiên thường phục tử hà sa,
    BỒNG ĐẢO khôn tìm ngày tháng qua.

        BỒNG ĐẢO là đảo của tiên ở, là cỏi tiên, là nơi sướng nhất trần gian mà mọi người hằng ao ước. Nên trong văn chương các cụ ngày xưa còn dùng chữ Bồng Đảo để chỉ những cái gì làm cho người ta sung sướng nhất, tiêu hồn lạc phách nhất... Như trong thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương tả Thiếu Nữ Ngủ Ngày vậy :
    Đôi gò BỒNG ĐẢO sương còn ngậm,
    Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.

        Quả là cảnh tượng tiêu hồn lạc phách làm cho :
    Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
    Đi thì cũng dở, ở không xong !

        So với ĐÀO NGUYÊN và THIÊN THAI thì BỒNG LAI hoàn toàn là sản phẩm thần thoại và tưởng tượng theo truyền thuyết, không có một chút căn cứ thực tế nào cả. Nhưng vì Bồng Lai là cỏi tiên, là vùng đất hứa ngày xưa mà mọi người hằng ao ước, nó hư hư thực thực nên dễ hấp dẫn người đời, nhất là trong lãnh vực văn thơ cổ xưa. Trong dân gian sức hấp dẫn của Bồng Lai càng mạnh mẽ hơn với những truyện truyền khẩu về BÁT TIÊN QUÁ HẢI, và từ Bồng Lai được dùng đặt tên cho một Thị Trấn cấp Huyện thuộc Thành phố Yên Đài tỉnh Sơn Đông, nơi giáp ranh giữa Bột Hải và Hoàng Hải, là nơi mà theo truyền thuyết Bát Tiên là Lữ Động Tân, Lý Thiết Quảy, Trương Quả Lão, Hán Chung Ly, Tào Quốc Cựu, Hà Tiên Cô, Lam Thái Hòa và Hàn Tương Tử đã thi triển thần thông, đạp bèo lướt sóng, xuất phát từ nơi bãi biển nầy "quá hải" để đến đảo Bồng Lai vui với cuộc sống thần tiên.

        Nhắc đến BÁT TIÊN lại làm cho ta nhớ đến lúc Từ Hải gặp Kiều. Sau khi " Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn " để chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh, thì Từ Hải cũng đã :
    Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,
    Đặt giường thất bảo, vây màn BÁT TIÊN.

        Để cho " Trai anh hùng , Gái thuyền quyên " gặp nhau như là lạc vào BỒNG LAI TIÊN CẢNH vậy !

Đỗ Chiêu Đức

09 tháng 5 2019

Đối bóng

<D.508><Cảm Xúc>



ĐỐI BÓNG

Bóng ngã đèn chong ảnh lại về
Soi tình ấm lạnh nghĩa hiền thê
Con đường dịch biến thời qua trải
Cảnh huống hoài theo chuỗi cận kề
Vẫn hiện trầm ngâm dòng cảm xúc
Luôn cùng phảng phất nỗi buồn tê
Từng đêm lặng lẽ men sàng lắng
Mặc bão lòng đang nổi tứ bề

Mai Thắng
190421

-----------------
Bài xướng của Sông Thu

TRI KỶ MỘT ĐỜI

Đèn mới thắp lên, bóng đã về
Ân cần thân thiết tựa phu thê
Ta cười, bóng rộn vui nghiêng ngả
Ta khóc, bóng buồn khổ tái tê
Trà cúc nâng ly cùng đối ẩm
Nhạc tình dạo khúc lại chung nghe
Nỗi niềm tâm sự không cần ngỏ
Thấu hiểu lòng nhau, mãi cận kề.

Sông Thu

Sắc hạ tươi nồng

<D.507><Thương Hạ Ca>  



SẮC HẠ TƯƠI NỒNG

Giã biệt xuân tàn chuyển sắc bông
Chùm hoa lịm rã mất hương nồng
Ve buồn góc cổng luôn hoài niệm
Liễu đứng bên hồ mải đợi trông
Cảm trận mưa chiều rơi thấm đẫm
Chào tia nắng vãn điểm khoe hồng
Diều lên thẳm vợi màu xanh biếc
Ước thả mơ màng một quãng không

Mai Thắng – 190430

-----------------------------

ÊM ĐỀM SẮC HẠ

Giao mùa bịn rịn cúc vài bông
Hạ đến làn hương bỗng thoảng nồng
Giữa bến con đò ngơ ngẩn đợi
Bên hồ dáng liễu rỡ ràng trông
Hờn ve phượng vĩ vừa bung đỏ
Dỗi nắng tường vi mới trổ hồng
Rực rỡ khung trời mây trắng điểm
Nâng diều vút bổng tận tầng không!

29/4/2019
DUNG NGUYÊN