Nhãn

12 tháng 1 2019

Bóng ảo chiều đông

<D.423><Tiết Lạnh Đông> 



BÓNG ẢO CHIỀU ĐÔNG

Quạnh quẽ màn sương phủ váng mờ
Khung trời vắng vẻ lạnh hồn thơ
Chung trà đậm sưởi hương màu nhớ
Khúc phổ vời ru điệu vũ chờ
Vẫn gợn đường khuya lồng nét ảnh
Luôn vờn bóng ảo hiện mành tơ
Từ sâu thẳm ngóng mùa xoay vội
Khép vững niềm tin giọng giả hờ.

Mai Thắng
190112

★ Bài xướng của Dung Nguyên

CHIỀU ĐÔNG

Chiều mưa phố nhỏ đẫm sương mờ
Huyễn ảo khung trời đẹp ý thơ
Tửu quán bầu cay từng giọt dỗ
Trà sen chén dịu những hương chờ
Êm đềmvũ khúc trầm khuông nhạc
Nhẹ nhõm cung đàn bổng phím tơ
Thả mộng mơ màng theo lối cũ
Vàng lay rặng liễu tóc buông hờ...

10/1/2019
DUNG NGUYÊN

Trời đêm phố lạnh

<D.422><Thời Tiết-Khí Hậu>



TRỜI ĐÊM PHỐ LẠNH

Sương trùm phố nhỏ lạnh trời đêm
Vắng vẻ đường khuya tĩnh lặng thềm
Ngõ hẻm vang lùa cơn gió nhẹ
Thư phòng đắp vội mảnh mền êm
Nằm thao thức điểm canh về sáng
Niệm dỗ dành ru giấc ngủ mềm
Cảnh huống im lìm rơi quạnh quẽ
Ai người thố lộ nhủ lòng thêm.

Mai Thắng
190111

★ Bài xướng của Dung Nguyên

TIẾNG ĐÊM

Huyễn ảo muôn vùng lặng bóng đêm
Quỳnh khoe cánh mỏng dịu bên thềm
Đường khuya gió phả đìu hiu lạnh
Lối nhỏ hương tràn nhẹ nhõm êm
Tỏa khắp vầng trăng tràn nhũ bạc
Xòe nghiêng vạt cỏ hứng sương mềm
Bình yên cảnh vật nồng say giấc
Khiến cả khung trời tĩnh mịch thêm!

10/1/2019
DUNG NGUYÊN

10 tháng 1 2019

Đêm dài tĩnh lặng

<D.421><Thời Tiết-Khí Hậu>



ĐÊM DÀI TĨNH LẶNG

Giữa khoảng non ngàn mịt váng sương
Tàn đông vắng lạnh những con đường
Vầng trăng thức dõi trời phiêu bạt
Mảnh ruộng loang chìm quãng nhớ thương
Nhóm lửa phong trần ngâm chuỗi quạnh
Hò câu vọng cổ thoáng môi hường
Buồn vui nhẫn đợi thời xoay chuyển
Giữa khoảng non ngàn mịt váng sương.

Mai Thắng
190109

★ Bài xướng của Trương Đức Hạnh

TĨNH LẶNG

“Thủ vĩ ngâm”

Non ngàn tĩnh lặng thoảng màn sương
Một ánh sao khuya đã lạc đường
Cảnh vật im lìm trăng vẫn thức
Mây trời lặng lẽ gió hoài thương
Hồn nhiên chú cuội hòa sông mộng
Bỗng chốc nàng thơ nở nụ hường
Đất Mẹ vui buồn ai đã tỏ..!
Non ngàn tĩnh lặng thoảng màn sương.

Đức Hạnh
09 01 2019

Em Và Xuân

<D.420~Thơ Xuân>



EM VÀ XUÂN

Em bón mai vàng nở giữa xuân
Em cùng rộn rã đón nàng xuân
Em cài ngọc thể xuân hồng sắc
Em tẩm trang đài nét diễm xuân
Em mở vườn xuân ong đắm mật
Em bày cảnh mộng bướm vờn xuân
Em tô vận thắm chiều xuân đẹp
Em trải tim nồng thưởng thức xuân!

Mai Thắng
190109

★ Bài xướng của Như Thị - Lê Đăng Mành
(Thủ nhất thanh độc vận)

THƠ XUÂN

Thơ đằm thắm gợi ý mùa xuân
Thơ dịu dàng gom cả dáng xuân
Thơ dưỡng tinh thần bên đất nước
Thơ gìn phong thái giữa trời xuân
Thơ mừng Huynh Tỷ dồi dào lộc
Thơ chúc thi đàn đậm nét xuân
Thơ đón giao thừa không tiếng pháo
Thơ chào Kỷ Hợi bộn lời xuân

Như thị

C. Cầu Lam

<C.011><Điển tích văn học>

Đề tài: CẦU LAM
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC


        CẦU LAM là cây cầu màu xanh lam, mà cây cầu mà màu xanh lam là cây cầu đẹp và nên thơ vô cùng, vì nơi đó là chỗ ở của người đẹp, của các nàng tiên, của người trong mộng… nên khi muốn nghe Thúy Kiều đờn, Kim Trọng đã phải rào đón trước :
 Sinh rằng : Gió mát trăng trong,
 Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
 Chày sương chưa nện CẦU LAM,
Sợ lần khần qúa ra sởm sỡ chăng ?

        hay như trong Lâm Tuyền Kỳ Ngộ :
 CẦU LAM hội ấy đành khôn hẹn,
 Con tạo trời kia bỗng khéo xây.

        Cầu Lam là LAM KIỀU, là nơi ở của người đẹp mà ta hằng ao ước. Nên khi dò la tìm chỗ ở của Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du đã viết về chàng Kim Trọng như sau :
Tình riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo LAM KIỀU lần sang.

        Ngay cả Mã Giám Sinh khi đến trả giá để mua Thúy Kiều cũng phải làm ra vẻ cao qúy nho nhã lịch sự :
Rằng mua ngọc đến LAM KIỀU,
 Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.

        Lam Kiều hay Cầu Lam còn có liên quan đến CHÀY SƯƠNG là cái Chày dùng để giả thuốc trường sinh làm sính lễ cưới vợ, như Kim Trọng đã nói ở trên : CHÀY SƯƠNG chưa nện CẦU LAM, 
có nghĩa là chưa trình sính lễ để hỏi cưới, để hợp thức hóa mối duyên của đôi lứa yêu nhau.

        Lam Kiều cũng làm cho người ta nghĩ đến QUỲNH TƯƠNG, là thứ rượu được ướp bằng trái cây, như rượu cocktail của ta bây giờ, nhưng ngày xưa Quỳnh Tương là rượu qúy chỉ dùng để đãi khách qúy mà thôi. Nên để trân trọng cho lần đầu tiên gặp gỡ, Kim Trọng đã dùng chén HÀ là chén có hoa văn như mây ở trên trời, rót rượu Quỳnh Tương vào để đãi Thúy Kiều :
Chén HÀ sánh giọng QUỲNH TƯƠNG,
Dải là hương lộn bình gương bong lồng !

        Để tìm hiểu một cách thấu đáo, chính xác sự liên quan giữa các điển tích Lam Kiều, Cầu Lam, Chày Sương, Quỳnh Tương … như thế nào, mời tất cả cùng đọc và tìm hiểu xuất xứ sau đây :

        Thật ra LAM KIỀU không phải là Cây cầu màu xanh lam, mà là LAM KIỂU DỊCH 藍橋驛, là Dịch quán Lam Kiều, nằm ở đông nam của xứ Lam Khê( Dòng sông xanh ) thuộc huyện Lam Điền tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Nơi nổi tiếng là đường cái quan ra vào kinh thành Trường An của đời Đường. Lam Kiều còn nổi tiếng với câu chuyện của Bùi Hàng cưới được vợ đẹp là Vân Anh và vợ chồng đều lên tiên theo tích sau đây...

Chung thuyền gặp Vân Kiều

        Theo sách Thái Bình Quảng Ký, quyển 50: Đời Đường Mục Tông (795-824), năm Trường Khánh có Tú tài Bùi Hàng 裴航 lai kinh ứng thí, nhưng thi rớt. Buồn vì vô tích sự nên định đi du ngoạn Tương Dương một chuyến để giải khuây. Khi đến bến để thuê thuyền thì chỉ còn một khoang thuyền nhỏ, khoang chính của thuyền đã có một phu nhân thuê rồi. Mặc dù có rèm sáo che chắn, nhưng vì ở chung trên một chiếc thuyền, lúc lên xuống ra vào, khi gió động rèm châu, Bùi Hàng cũng lén ngắm nhìn dung nhan của vị phu nhân chung thuyền. Chàng chợt ngẩn người ra và mê mẫn trước sắc đẹp như tiên giáng thế của vị phu nhân mà ngày thường chỉ nghe tiếng nói thanh tao như ngọc của nàng qua bức rèm châu. Hỏi thăm thị nữ theo hầu thì được biết đó là Phàn Phu Nhân. Chàng bèn làm một bài thơ tỏ tình ái mộ của mình, rồi nhờ thị nữ chuyển đến cho phu nhân bài thơ sau đây :

同舟胡越猶懷想, Đồng chu Hồ Việt do hoài tưởng.
況遇天仙隔錦屏。 Huống ngộ thiên tiên cách cẩm bình.
倘若玉京朝會去, Thảng nhược Ngọc kinh triều hội khứ,
願隨鸞鶴入青雲。 Nguyện tùy loan hạc nhập thanh vân.
        có nghĩa :
Cùng thuyền Hồ Việt cũng thương nhau,
Huống gặp người tiên cách sáo rào.
Nếu đó Ngọc Kinh về phó hội,
Nguyện cùng chắp cánh vút trời cao !

        Phàn phu nhân xem xong mỉm cười nói thầm : Rõ khéo đa tình, rất tiếc ta không phải là đối tượng của chàng ! Bèn lấy ra một mảnh hoa tiên, cất bút đề thơ hồi âm :

一飲瓊漿百感生, Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sanh,
玄霜搗盡見雲英。 Huyền sương đão tận kiến Vân Anh.
藍橋便是神仙窟, Lam Kiều tiện thị thần tiên quật.
何必崎嶇上玉京? Hà tất khi khu thướng Ngọc Kinh ?
        có nghĩa :
Một chén quỳnh tương trăm cảm sanh,
Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
Lam Kiều chốn ấy thần tiên ngụ,
Sao phải gập ghềnh đến Ngọc Kinh ?!

         Bùi Hàng đọc thơ mà không hiểu ngụ ý của Phu nhân muốn nói chi. Huyền sương là cái gì và Vân Anh là ai, sao lại ở trong thần tiên quật (hang động của thần tiên). Chàng cứ ngẩn ngơ suy nghĩ mãi không hiểu nàng muốn ám chỉ việc gì. Chừng định hồn lại thì phu nhân và thị nữ đã lên bờ đi mất. Dò la mãi cũng không biết được mãi mai tin tức gì. Buồn lòng, chàng bèn quay trở lại Trường an định chờ khoa thi tới. Khi về đến Lam Kiều Dịch, xa xa trông thấy có mấy mái nhà tranh thật nên thơ, sẵn đang khát nước chàng bèn ghé lại xin chén nước uống. Sau khi hỏi xin bà lão đang ngồi quay tơ trứơc cửa, thì bà lão gọi vói vào trong nhà : " Vân Anh, bưng nước ra mời khách !". Bùi Hàng ngẩn người ra nhớ lại bài thơ của Phàn phu nhân có nhắc đến Vân Anh. Chàng hồi hộp nhìn vào bên trong bình phong, quả nhiên một người con gái khoảng mười lăm mười sáu tuổi đẹp như tiên nga bưng nước ra mời khách. Chàng uống cạn ly nước mát ngọt lịm tận tim gan. Tuy nàng đã lui vào bên trong mà hương thừa vẫn còn phảng phất đâu đây. Chàng lấy cớ là đi đường người mệt ngựa mõi mà nấn ná ở lại nghỉ ngơi.

        Sau khi làm quen và trao đổi hàn huyên với bà lão, Bùi Hàng mới khẩn khoản ngỏ ý muốn xin cưới Vân Anh, thì bà lão bảo rằng :" Đó là cháu gái của lão, bà cháu sống nương tựa lẫn nhau, nếu muốn cưới nó thì phải giúp lão giả xong thang thuốc Huyền Sương, vì là thuốc của tiên ban nên phải giả bằng chày ngọc cối ngọc. Nếu trong một trăm ngày mà chàng tìm được chày ngọc cối ngọc đến đây giả thuốc cho ta , thì ta sẽ gả nó cho chàng ". Bùi Hàng vui mừng hớn hở từ biệt bà lão để ra đi tìm chày ngọc cối ngọc.

        Chàng lang thang suốt hơn hai tháng trường, bỏ cả khoa thi để quyết chí tìm chày cối ngọc. Nhưng vẫn biền biệt không tìm đâu ra cả. Buồn lòng và lo lắng, gặp ai cũng chỉ hỏi có chày ngọc cối ngọc mà thôi. Một hôm đang lang thang để hỏi thăm tin tức ở kinh thành, tình cờ gặp được người buôn ngọc cho chàng biết là có người đang rao bán chày cối ngọc, nhưng lại đòi đến hai ngàn lượng bạc. Chàng đành phải bán cả hành trang, cả ngựa và cả tên gia đồng theo hầu mới đổi được chày ngọc cối ngọc mang về Lam Kiều cho bà lão. Bà lại bảo chàng phải ở lại Lam Kiều để giã thuốc Huyền Sương cho đúng một trăm ngày nữa.

Bùi Hàng dâng thuốc

        Khi thuốc đã giã xong và khi bà lão đã uống xong thuốc, bèn dẫn Vân Anh ra đi và bảo chàng hãy nán đợi. Hôm sau, có đoàn ngựa xe từ đâu đến đón chàng đi đến một nơi mây mù vần vũ, lầu các nguy nga, tòa rộng dãy dài, tiêu thiều nhạc sáo vang vang, trúc tơ dìu dặc như tiên cảnh. Bà lão không còn nghèo nàn như trước mà hiện ra như một lão Phật gia trong cung tiên, cô dâu Vân Anh đẹp rực rỡ với " Hoa quan chấp chới hà y rỡ ràng " được thị tì hai bên đở ra để làm lễ tơ hồng. Bùi Hàng bàng hoàng ngây ngất, sung sướng đê mê bên cô dâu thơm phức và đẹp như … tiên !

        Sau khi cử hành hôn lễ, bà lão còn đưa hai vợ chồng đến ra mắt một tiên nương chị của cô dâu Vân Anh là Vân Kiều. Bùi Hàng mới giật mình nhận ra đây là Phàn phu nhân đi cùng thuyền với mình lúc trước. Thì ra Vân Kiều Phàn phu nhân đã báo trước mối duyên giã thuốc của mình với Vân Anh ở Lam Kiều rồì, mà trước đây mình đâu có biết.

        Sau những năm tháng sống vui vẻ bên nhau, vợ chồng Bùi Hàng cũng cùng tu và cùng đắc đạo thành tiên cả.


        Đây cũng là câu chuyện xung đột giữa đạo Nho và đạo Lão. Vì chuyện của Bùi Hàng mà một số Nho sinh bỏ Nho theo Lão để tu tiên. vừa có vợ đẹp vừa có cuộc sồng thoải mái như … tiên. Không bị ràng buộc bởi công danh phiền toái mà còn phải biết a dua nịnh bợ với cấp trên và cũng chưa chắc đã được yên thân trong quan trường đầy hiễm họa.

Đỗ Chiêu Đức 

Lam Kiều Dịch Quán

Vị Tết Còn Chưa

<D.419~Thơ Xuân>



VỊ TẾT CÒN CHƯA

Nghi rằng vị tết vẫn còn chưa
Bởi lẽ tình hoa cứ thẹn thùa
Nụ hé chồi non vòi vĩnh hỏi
Đài lăm cánh mỏng chực chờ thưa
Dời then cửa nắng e mù giẫm
Mở ngưỡng hồn xuân ngại gió lùa
Cảm sắc đông tàn do dự mãi
Ông trời bất cập những ngày mưa

Mai Thắng - 190107

★ Bài xướng của Dung Nguyên

MƯA BỤI

Chuyển tiết xuân trời đẫm bụi mưa
Nồm nam ẩm ướt nhởn nhơ lùa
Hàng cây trụi nhẵn trơ cành nhỏ
Góc chợ xa mờ quạnh lán thưa
Bỡ ngỡ khung trời chim én liệng
Lung linh mặt đất sắc hoa thùa
Hình như cõi dạ hoài xao xuyến
Khẽ hỏi quê chàng tết đến chưa?

7/1/2018
DUNG NGUYÊN

★ Bài hoạ khác của Ngọc Lê

MƠ MÀNG XUÂN

(Nđt-Bát láy)

Xuân thời tiết bỗng sụt sùi mưa
Lạnh lẽo từng cơn gió thoảng lùa
Quạnh quẽ cây bàng phơi lá đỏ
Âm thầm dáng bậu ẩn rèm thưa
Chiều nghe điệu lý êm đềm trỗi
Tối thả đường kim lặng lẽ thùa
Cứ thẫn thờ trông đào trổ nụ
Mơ màng dạ hỏi Tết về chưa?

Ngọc Lê. 10/1/19-622

Xuân Ngẫm Lại Thời

<D.418~Thơ Xuân>



XUÂN NGẪM LẠI THỜI

Ngàn cơn biến loạn thời binh lửa
Chỉ đạt thanh bình thôi nói nữa
Lũ trẻ chơi đùa hoạt góc sân
Quân già ngẫm vọng qua thềm cửa
Bày phơi não kiệt khúc bi hài
Rớt mượn danh tồn nơi đỉnh giữa
Cảm ngỡ ngàng khi đối diện lòng
Hung tàn bạo ác đời khôn rửa.

Mai Thắng –
190107

★ Bài xướng của Như Thị (Lê Đăng Mành)

XUÂN PHƯỚC LẠC

“Vần trắc NĐT”

Vũ trụ hình như đà nhóm lửa
Trời đông lại ấm dần lên nữa
Hương thầm mỹ cảm đọng ngoài hiên
Nhụy nhã tinh thần lan trước cửa
Phụng đón mầm tươi dẫu chẳng tiền
Cung chờ sắc đượm dù không của
Bên thềm nụ đã phất phơ màu…
Phước lạc trung đường treo ở giữa

Như Thị

06 tháng 1 2019

Dạo Bước Tầm Xuân

<D.417~Thơ Xuân>



DẠO BƯỚC TẦM XUÂN

Dạo gót khuôn hè thưởng sắc hoa
Vàng xanh trắng đỏ thật xinh mà
Như chùm nắng mới ngây ngô ngả
Tựa tiếng mưa phùn sụt sịt sa
Lá rụng bên đường bay lả tả
Hồ in dáng liễu đứng la đà
Xuân nay sáu bảy thôi vồn vã
Quãng nhạc đi vào khúc rệu ca.

Mai Thắng – 190104

★ Bài xướng của Trường Lưu Thuỷ

VẦN XUÂN

Xuân về dạo gót ngắm vườn hoa
Bách hợp xinh tươi dáng mượt mà
Thủy cúc khoe màu trong nắng ngả
Anh đào trổ sắc giữa mưa sa
Nàng thơ ẩn hiện yêu yêu quá
Bóng Liễu mơ màng nhớ nhớ đa
Sáu bảy mùa qua sao vẫn lạ
Nghe lòng rộn rã bản tình ca

KON TUM 2-1-19

03 tháng 1 2019

C. Mai Trúc

<C.010><Điển tích văn học> 

Đề tài: MAI TRÚC
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC



        MAI TRÚC là nói gọn lại của Thành ngữ Điển tích "THANH MAI TRÚC MÃ". Trước khi tìm hiểu Điển Tích nầy, mời đọc bài thơ Ngũ ngôn Cổ phong Nhạc phủ của Thi Tiên LÝ BẠCH sau đây:

長干行      TRƯỜNG CAN HÀNH

妾髮初覆額, Thiếp phát sơ phúc ngạch,
折花門前劇。 Chiết hoa môn tiền kịch.
郎騎竹馬來, Lang kỵ trúc mã lai,
遶床弄青梅。 Nhiễu sàng lộng thanh mai.
同居長干裡, Đồng cư Trường Can lý,
兩小無嫌猜。 Lưỡng tiểu vô hiềm sai.
十四為君婦, Thẫp tứ vi quân phụ.
羞顏未嘗開。 Tu nhan vị thường khai.
低頭向暗壁, Đê đầu hướng ám bích,
千喚不一回。 Thiên hoán bất nhứt hồi.
十五始展眉, Thập ngũ thỉ triển mi,
願同塵與灰。 Nguyện đồng trần dữ hôi.
常存抱柱信, Thường tồn bảo trụ tín,
豈上望夫臺。 Khởi thượng Vọng phu đài.
十六君遠行, Thập lục quân viễn hành,
瞿塘灩澦堆。 Cù Đường diễm dự đôi.
五月不可觸, Ngũ nguyệt bất khả xúc,
猿聲天上哀。 Viên thanh thiên thượng ai.
門前遲行跡, Môn tiền trì hành tích,
一一生綠苔。 Nhất nhất sinh lục đài.
苔深不能掃, Đài thâm bất năng tảo,
落葉秋風早。 Lạv duệp thu phong tảo.
八月蝴蝶黃, Bát nguyệt hồ điệp hoàng,
雙飛西園草。 Song phi tây viên thảo.
感此傷妾心, Cảm thử thương thiếp tâm,
坐愁紅顏老。 Tọa sầu hồng nhan lão.
早晚下三巴, Tảo vãn hạ Tam Ba,
預將書報家。 Dự tương thư báo gia.
相迎不道遠, Tương nghinh bất đạo viễn,
直至長風沙。 Trực chí trường phong sa.
李白                      Lý Bạch

Thanh Mai Trúc Mã kiểu Tàu và Kiểu Tây

* Chú thích

        - Trường Can : Tên một làng, nay thuộc huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô. HÀNH là tên một khúc hát trong Nhạc phủ như CA, KHÚC, HÀNH … Nên TRƯỜNG CAN HÀNH là Khúc hát xứ Trường Can. Ngoài bài nầy của Lý Bạch ra, ta còn có 2 bài TRƯỜNG CAN HÀNH ngũ ngôn tuyệt cú nhạc phủ cũng rất nổi tiếng của Thôi Hiệu ( Mời đọc Đường Thi Tuyển Độc I, bài 21 ).
        - Phúc Ngạch : Phúc là Đậy, Ngạch là Trán; nên Phúc Ngạch là Phủ trán.
        - Kịch : không phải là Kịch nghệ, ở đây có nghĩa là Chơi Đùa.
        - Sàng : không phải là cái Giường ngủ, mà là cái Miệng Giếng.
        - Hiềm Sai : là Nghi Ngại. Vô Hiềm Sai là Không nghi ngại gì cả, rất vô tư.
        - Triển Mi : là Mở mày. Ta hay nói là Mở Mày Mở Mặt, ý chỉ Mặt Mũi đã trưởng thành, đã đẹp đẽ. Mở Mày Mở Mặt trong tiếng Việt ta còn dùng để chỉ Vui Vẻ hân hoan vì Hãnh Diện bởi việc gì đó.
        - Nguyện Đồng Trần Dữ Hôi : là Nguyện cùng tro cùng bụi, ý muốn nói là Sẽ Đồng cam cộng khổ với nhau.
        - Bão Trụ Tín : là theo Thành ngữ : BẢO TRỤ CHI TÍN 抱柱之信 là Cái Uy Tín Về Việc Ôm Cột (Cầu). Theo sách TRANG TỬ: VĨ SINH hẹn với cô gái ở dưới trụ cầu. Khi nước lớn, cô gái không đến, VĨ SINH ôm lấy cột cầu "chịu trận" mà chết. Si tình đến thế là cùng! Cụ NGUYỄN DU gọi ÔM CỘT là ẤP CÂY và đã mượn tích nầy để cho KIM TRỌNG "Hù" THÚY KIỀU:
            ...Tháng tròn như cuội cung mây,
            Trần trần một phận "ẤP CÂY" đã liều!

rồi mới tỏ tình...
            Tiện đây xin một hai điều,
            Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?!

        Nếu nàng chẳng “ soi đến dấu bèo “ thì ta sẽ chết như Vĩ Sinh cho nàng xem !

Bảo Trụ Chi Tín

        - Vọng Phu Đài : là Đài Trông Chồng, ở cách Nam Huyện của tỉnh Tứ Xuyên hai ba chục dặm. Tương truyền là nơi của Tôn Phu Nhân đứng để ngóng trông Lưu Bị, khi Bị đã chết ở Bạch Đế Thành .
        - Cù Đường : Tên một bến nước, ở phía thành đông của Quỳ Châu Phủ, tên cũ là Tây Lăng Giáp, là cửa ngỏ ra vào của Tam Giáp, hai bên vách đá dựng đứng giữa dòng Trường Giang.
        - Hành Tích : là Dấu tích của bước chân đã đi qua. Là Dấu Giày.
        - Tam Ba : là Ba Quận, Ba Đông, Ba Tây, hợp xưng là Tam Ba.
        - Trường Phong Sa : là địa danh, nay thuộc huyện Qúy Trì, tỉnh An Huy.

Vọng Phu Đài

* Dịch nghĩa

KHÚC HÁT XỨ TRƯỜNG CAN
Khi tóc của thiếp vừa phủ lưa thưa xuống trán, đang hái hoa chơi đùa phía trước cửa, thì chàng cởi ngựa tre chạy đến, chạy vòng quanh miệng giếng để ngắt ghẹo cành mai xanh. Chúng ta cùng lớn lên ở xứ Trường Can, hai đứa trẻ cùng ngây thơ trong trắng không úy kỵ gì cả ! Nhưng… Mười bốn tuổi thiếp đã về làm vợ chàng rồi, mà vẫn còn rất thẹn thùng bẽn lẽn, chỉ cúi đầu nằm xây mặt vào vách, chàng gọi trăm ngàn lần vẫn không quay đầu lại. Đến mười lăm tuổi mới mở mặt mở mày ra nguyện cùng chàng đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau, và quyết một lòng chung thủy với chàng (bảo trụ tín) cho dù phải lên Vọng Phu Đài để trông ngóng chồng về. Mười sáu tuổi chàng lại phải đi xa đến tận xứ Cù Đường hiễm trở. Giữa tháng năm mùa hè nóng nực, tiếng vượn hú vang mãi tận trời xanh. Những dấu chân của thiếp khi đưa tiễn chàng trước cửa đều đã nổi rêu xanh, rêu dầy đến nỗi thiếp cố quét nhưng vẫn không đi. Lá rụng theo làn gió thu sớm thổi, những con bướm tháng tám đã vàng vọt, nhưng vẫn bay song đôi trong vườn tây đầy cỏ, làm cho thiếp cảm thấy thương tâm cho thân phận lẻ loi, ngồi đây mà sầu não cho cái nhan sắc sớm già nua của mình ! Nếu trong một sớm tối nào đó mà chàng về đến xứ Tam Ba, hãy viết thư về nhà báo cho thiếp biết trước, thiếp sẽ chẳng nệ đường xa mà đi đón chàng dù cho phải trực chỉ đến tận Trường Phong Sa !
Tình cảm chân thực, thật thà nhưng tha thiết gắn bó của người vợ trẻ cùng lớn lên với chồng trong cùng một xóm một làng. Từ ngây thơ trong trắng đến lấy nhau hợp cẫn trong thẹn thùng, rồi khắng khít nhau, ủn ỉn như lợn ăn khoai, thề cùng đồng cam cộng khổ, để rồi lại phải chia tay nhau trong sầu nhớ. Hè đi thu đến, mơ ước được đoàn viên và sẽ chẳng ngại vượt đường xa mà đón chàng về sum họp ! Bài thơ nổi tiếng không chỉ vì chuyện tình của đôi lứa mà còn vì hai câu thơ bất hũ :
            Lang kỵ Trúc Mã lai,                        郎騎竹馬來,
            Nhiễu sàng lộng Thanh Mai.         繞床弄青梅。

đã hình thành Thành ngữ Điển Tích “Thanh Mai Trúc Mã 青梅竹馬“ để chỉ những đôi lứa cùng lớn lên bên nhau, rồi cùng yêu nhau, cùng thành chồng vợ với nhau. Sau dùng rộng ra để chỉ các cặp đôi là bạn học với nhau hay quen biết nhau từ tấm bé, từ trước … rồi mới yêu nhau, lấy nhau. Dùng rộng ra hơn nữa là … chỉ để chỉ tình nghĩa vợ chồng với nhau mà thôi ! và … Thành ngữ nầy còn được nói gọn thành “ Mai Trúc “hay “ Trúc Mai “ như trong Truyện Kiều tả lúc Thúy Kiều bán mình chuộc cha đã chối lại với Thúy Vân để nói lại với Kim Trọng rằng :
            Tái sinh chưa dứt hương thề,
            Làm thân trâu ngựa đền nghì Trúc Mai.


        và khi Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cụ Nguyễn Du đã viết :
Một nhà sum họp Trúc Mai,
 Càng sâu nghĩa bễ càng dài tình sông !

        hay khi tưởng Thúy Kiều đã chết cháy trong thư phòng, chàng Thúc cũng đã khóc :
Tưởng rằng Mai Trúc lại vầy,
 Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau !

        Bắt chước theo gương người xưa, trong bài thơ “ Thắm Thoát Năm Mươi Năm “ tả lại mối tình của tuổi học sinh, Đỗ Chiêu Đức tôi cũng kết thúc bài thơ bằng 8 câu :
 … Những lúc trà dư tửu hậu tan,
Chạnh niềm cô lữ buổi xuân tàn.
Chiều nay chợt thấy lòng xao xuyến,
Ngậm ngùi đọc lại khúc Trường Can.
    “ Mai Trúc “ ngày xưa đã dở dang,
    Phương trời cách biệt những bâng khuâng,
    “ Thanh Mai “ vẫn thắm như ngày trước ?!
    “ Trúc Mã “ giờ đây đã cỗi cằn !!!

Thanh Mai Trúc Mã thời nay

* Diễn nôm

 KHÚC HÁT TRƯỜNG CAN

Khi tóc thiếp mới vừa phủ trán,
Bẻ hoa chơi lảng vảng trước sân.
Ngựa tre chàng cưởi đến gần,
Chạy quanh bờ giếng ghẹo cành mai xanh.

Xứ Trường Can em anh cư trú,
Hai bé con vẫn cứ thơ ngây,
Mười bốn làm vợ chàng ngay,
Thẹn thùa chưa biết mảy mai chuyện tình.

Cứ quay đầu mặt nhìn vào vách,
Gọi ngàn lần… nhìn vách làm thinh.
Mười lăm mới đắm đuối tình,
Nguyện cùng lên thác xuống ghềnh có nhau !

Như Vĩ Sinh ôm cầu giữ hẹn,
Nào phải cần thẹn đá vọng phu.
Mười sáu chàng phải viễn du,
Cù Đường non nước mịt mù xa xôi.

Trời tháng năm tơi bời nóng bức,
Tiếng vượn buồn thổn thức mây xanh.
Dấu giày đưa tiễn bước anh,
Giờ đà đã phủ rêu xanh mất rồi !

Rêu xanh phủ ngậm ngùi khôn quét,
Lá vàng rơi gió rét thu sang.
Trung thu tháng tám bướm vàng,
Song song đôi lứa bay sang vườn đoài.

Thấy đôi bướm ai hoài lòng thiếp,
Hồng nhan sầu ai biết già mau.
Sớm chiều mơ ước bên nhau,
Nếu thư chàng báo về mau lại nhà,

Thiếp sẽ chẳng nề hà đường xá,
Nguyện vượt ngàn đến xứ Tam Ba.
Thẳng dong tận Trường Phong Sa,
Đón chàng về lại quê nhà đoàn viên !
ĐCĐ

        Nhưng đó chỉ là mơ ước của nàng thiếu phụ trông chồng mà thôi, chứ thực tế thì … vẫn biền biệt bặt vô âm tín, không biết chàng đang ở nơi nao và khi nào thì mới về quê như trong bài XUÂN TỨ cũng của Lý Bạch là :
Đương quân hoài quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì !

        có nghĩa :
 Khi chàng nhớ trở lại nhà,
 Là khi lòng thiếp xót xa đoạn trường!

        Đỗ Chiêu Đức

Đếm ngược thời gian

<D.416><Cảm Xúc>




ĐẾM NGƯỢC THỜI GIAN

Nhẫn đếm kim giờ trở ngược không*
Chìm tư lự kiểm giấc mơ hồng
Vòng quay khẽ níu hương thừa ảnh
Khúc phổ êm hành điệu vãn đông
Quá cảnh an bài tin nhiễu loạn
Nhờ duyên thấu cảm vị cay nồng
Hồn xuân khát vọng luồng suy tưởng
Điểm xuyết trên cành những nụ bông

Mai Thắng
@1412~190101
* số không, tính mốc thời gian là Tết Kỷ Hợi.

★ Bài xướng của Duy Anh

ĐÓN GIAO THỪA

Đếm ngược thời gian tới số không
Giao Thừa đã điểm giữa trời Đông
Vạn người nô nức xem hoa giấy
Đôi lứa rộn ràng ngắm pháo bông
Tiễn cựu dịu dàng lời chúc đẹp
Nghinh tân âu yếm nụ hôn nồng
Times Square! * Cùng đón Mừng Năm Mới
Ánh mắt ngời lên, má ửng hồng...

Duy Anh
Happy New Year 2019

★ Bài hoạ của Cao Mỵ Nhân

PHÚT GIAO NIÊN

Mải đếm thành quên cả sắc không
Giao niên thường ngẫm chuyện tây đông
Phố phường New York banh vừa nổ
Làng xóm Bolsa pháo đã bông
Tống cựu V N không nhúc nhích ( Vi En )
Nghinh tân U S vẫn nôn nồng ( U Ét )
Chúc mừng năm mới tưng bừng quá
La hét đèn hoa ngập ánh hồng ...

Hawthorne 26 - 12 - 2018
CAO MỴ NHÂN



★ Bài hoạ trên FB của Ngọc Liên

ĐIỆP KHÚC MÙA XUÂN

Ơi tình tuổi ngọc nhớ gì không?
Ngõ hẹn chiều nay nắng trải hồng
Mộng ngủ êm đềm bên quãng gió
Mây cười rộn rã dưới thềm đông
Lời thơ nhỏ giữ còn thơm ngát
Ý nhạc người gieo vẫn thắm nồng
Điệp khúc mùa xuân dìu dặt trỗi
Cây đời thoáng đã ngọt ngào bông.

Ngọc Liên 04.01.19

Trước Cửa Thềm Xuân

<D.415~Thơ Xuân>



TRƯỚC CỬA THỀM XUÂN

Tình xuân đến cửa đứng giăng ràng
Rộn rã con người đuổi bóng hoang
Ngọn cỏ tây bồi thân dưỡng thắm
Vườn hoa cúc chuẩn nụ chen vàng
Âm thầm tích trữ gom thành tổ
Lặng lẽ đong đầy chất ủ khoang
Hãy mở lòng thơ tràn nhiệt huyết
Chờ cơ trỗi dậy bẻ duyên bàng

Mai Thắng
181231

★ Bài xướng của Thạch Hãn (Lê Cảnh Tiến)

TRƯỚC THỀM XUÂN

Trước cửa mùa xuân đã rộn ràng
Ta ngồi đắm giữa mộng chiều hoang
Đường xưa ngọn cỏ choàng sương trắng
Nẻo cũ bờ sông nhuộm nắng vàng
Mỗi độ thơ hồng chen kín vở
Bao lần lệ úa chảy đầy khoang
Giờ đây bến đỗ hoàng hôn lạnh
Tự hỏi đời sao quá bẽ bàng ./.

LCT 31/12/2018

Uống Rượu Năm Mới

<D.414~Thơ Xuân>



UỐNG RƯỢU NĂM MỚI

Xem ra cảnh tết cũng bè bè
Mở tiệc cho cùng dự với nghe
Quất thử ly này vô tụ nhé
Hoà thêm vận nữa góp tay nè
Ê ! nàng bán số chia vài vé
Ớ ! chú bồi bàn lựa ít ve
Nhớ vững chân ngồi không để té
Chờ tin hãy cứ cụng đi hè.

Mai Thắng
181230

★ Bài xướng của Hoành Trần

CHÚC MỪNG NĂM MỚI

Vội viết đôi câu gửi bạn bè,
Chúc mừng năm mới thiệt bui nghe.
Điều xui vận rủi quăng đi nhé,
Việc tốt duyên may ghé đến tề
Vé số chơi vui mua ít vé.
Rượu trà tính toán sắm vài be,
Khéo mà lỡ trúng coi chừng té,
Hạnh phúc tràn dâng sướng quá hè!

Hoành Trần
30/12/18

Những thoáng đêm về

<D.413><Thời Tiết-Khí Hậu>



NHỮNG THOÁNG ĐÊM VỀ

Nguyệt toả canh tàn dẫn áng thơ
Màn sương nhẹ tản khói giăng mờ
Khuya- thềm lặng lẽ cơn hoà mộng
Vắng- ngõ thâm trầm điệu phổ mơ
Giấc ngủ không đầy đêm tĩnh niệm
Hoàng hôn vẫn nghẹn thế quân cờ
Còn say cố gọi ai buồn tỉnh
Nắng hửng lùa nghiêng một cõi bờ.

Mai Thắng
181231

★ Bài xướng của Hương Thềm Mây

MỘT THOÁNG ĐÊM

Đêm khuya nguyệt tỏa lộng trời thơ
Ngõ trúc sương gieo lãng đãng mờ
Dế cỏ thềm hoang hòa khúc mộng
Tắc kè ngõ bụi tấu cung mơ
Muội mê trần thế bao cơn loạn
Tĩnh giấc nam kha một ván cờ
Cuộc thế quanh co cơn huyễn tưởng
Trăm năm một thoáng lạnh đôi bờ.

Hương Thềm Mây
GM.Nguyễn Đình Diệm

Xuân Hưởng Thọ Trời

<D.412~Thơ Xuân>



XUÂN HƯỞNG THỌ TRỜI

TIỄN bước đông tàn đón sắc tươi
NĂM dần khép lại với bao người
QUA ngày bão sót mùa xoay chuyển
MỞ đức tin truyền sức vượt khơi
CỬA sẵn sàng nghênh tròn ý nguyện
LÒNG thanh thản giữ vẹn môi cười
VUI cùng cảnh trí màu hoa điểm
HÁI LỘC ĐẦU XUÂN HƯỞNG THỌ TRỜI.

Mai Thắng
181230

★ Bài xướng của Trầm Vân
MẾN CHÚC THỌ AN XUÂN PHƯỚC LỘC

2019 NGẬP ƠN TRỜI

MẾN chao cành biếc cánh đào tươi
CHÚC hạnh phúc vui đến mọi người
THỌ khỏe bóng già con phố đợi
AN lành mái ấm sóng tình khơi
XUÂN về rực rỡ nao làn gió
PHƯỚC rải hân hoan đẹp nụ cười
LỘC biếc vườn xanh lòng mở cửa
HAI KHÔNG MỘT CHÍN NGẬP ƠN TRỜI

Trầm Vân

30 tháng 12 2018

Năm tàn khắc khoải

<D.410><Tiết Khí>



NĂM TÀN KHẮC KHOẢI

Tiết lạnh nhen dầy buổi vãn đông
Đường đi tạo hóa vẫn xuôi dòng
Tà dương nhạt nhẽo chiều im lắng
Gió bão tiêu điều cảnh đợi trông
Duỗi mộng hồn côi tìm sóng ảo
Vầy hương vị ủ nhóm mơ hồng
Năm tàn lịch gỡ dần rơi hết
Để nghiệm âm thầm nỗi trống không.

Mai Thắng
181224

★ Bài xướng của Thầy Mai Lộc

NĂM TÀN

Thư phòng quạnh quẽ, lạnh chiều đông.
Mưa gió lê thê buốt giá hồn.
Sương trắng mơ hồ giăng khắp phố
Lá vàng tan tác chảy theo dòng.
Đèn sao nhấp nháy rực đường phố
Nhạc thánh u trầm vọng cõi không.
Thoi thóp năm tàn, cuốn lịch mỏng
Mấy tờ còn lại, sắt se trông!

Mailoc
12-23-18

★ Bài hoạ của Dung Nguyên

ĐÔNG TÀN

Cây giờ nảy lộc sắp tàn đông
Tí tách phùn giăng chảy hóa dòng
Đám cỏ xanh rờn xao xuyến mộng
Hoa đào rực đỏ ngỡ ngàng trông
Trào dâng cảm xúc hòa tươi thắm
Trỗi dậy niềm tin ủ thắm hồng
Dạ khát khao nhiều bao ước vọng
Cho hồn bổng vút tận tầng không...

27/12/2018
DUNG NGUYÊN

★ Bài hoạ của Mai Thành

CẢNH XÔ BỒ

Chạp về chẳng lạnh dẫu mùa đông
Chợt nắng xen mưa héo hắt lòng
Lãng đãng mù sương che hút lối
Mịt mờ mây kịt phủ quây dòng
Chiều tà lặng lẽ lòng tê tái...
Tuổi xế âm thầm chốn tĩnh không
Ngẫm sự thế nhân sao chán cảnh
Xô bồ danh lợi hám tiền trông !

122718 - Mai Thành.

27 tháng 12 2018

X82. Mưa Buổi Sớm Đông

<D.409~Bốn Mùa> 


MƯA BUỔI SỚM ĐÔNG

Rả rích bên hè những giọt mưa
Tàn đông vệt hửng khó lên vừa
Bình minh buổi sớm còn im đọng
Lửa bếp hương trà vẫn nhẹ đưa
Nghiệm chuỗi nguy nàn treo bất ổn
Tìm phương bỏ chạy lướt đi bừa
Nhìn quanh thế cuộc màn sinh tử
Khéo vẽ an nhàn cảnh dạ thưa!

Mai Thắng
181227

★ Bài hoạ của Van Be Ngo (Đức)

VỀ HAMBURG

Chân về Hamburg ngày đông mưa,
Ba tám năm xa kỷ niệm thừa.
Quãng vắng sau lưng buồn chất chứa,
Dòng đời định mệnh khúc hơn thua!
Nơi đây mái ấm ngày nương tựa,
Chốn cũ ân tình thuở nắng xưa.
Tuổi đã xế chiều nghiêng bóng cửa,
Từng ngày tóc bạc điểm lưa thưa.

31.12.2018
Ngô Văn Bé (Germany)

★ Bài hoạ của Cao Mỵ Nhân

SÁNG MƯA GIÔNG

Bạn đã nhìn xem sáng chuyển mưa
Một màn hơi nước ướt mây vừa
Rớt ngang thành phố như buồn bực
Đọng lại chân trời tưởng tiễn đưa
Tạm trú hiên nhà nghe gió tạt
Rời vô ngõ hẻm đẩy xe bừa
Ngày lên chưa đủ chan hoà nắng
Thấp thoáng bên đường ánh điện thưa...

Hawthorne 8 - 1 - 2019
CAO MỴ NHÂN

★ Bài hoạ của Thầy Mai Lộc
(Kỷ niệm trận tuyết đầu khi đến Mỹ 1983 - Pennsylvania)

TRẬN TUYẾT ĐẦU

Bước xuống phi trường, tí tách mưa
Tháng giêng Bắc Mỹ rét nào vừa.
Bếp hồng ấm áp sương mờ đọng
Ngõ tối lạnh lùng tuyết trắng đưa.
Xe cũ đi cày, khi ái ngại
Ngựa già kiếm sống, lúc xông bừa.
Nhớ nhà quạnh quẽ, ai chia sẻ?
Mộng ước Xuân về, gió sẽ thưa.

Mailoc

★ Bài hoạ của Mai Xuân Thanh

MƯA CALIFORNIA

Cali sáng dậy thấy trời mưa
Sửa soạn đi làm cũng kịp vừa
Tám hướng mây đen sương lá đọng
Bốn phương gió nhẹ nhánh cây đưa
Tuổi già lụm cụm đi run rẩy
Trai tráng hiên ngang chạy nhảy bừa
Thế sự kẻ bàn người mỗi ý
Phong trần có gọi chẳng ai thưa

MAI XUÂN THANH
Ngày 09/01/2019

★ Bài hoạ của Thầy Trầm Vân

Nhớ Làng Quê

Rơi lạnh qua lòng những giọt mưa
Làng quê khóm trúc nhớ sao vừa
Rộn lời chim hót hàng cây đón
Vui bóng con về dáng mẹ đưa
Vườn biếc hoa cười nghiêng bướm lượn
Ruộng xanh nắng rải nhẹ tay bừa
Đẹp tình sông nước con đò nhỏ
Mùa gọi xuân về tiếng gió thưa!

Trầm Vân

★ Bài hoạ của Thy Lệ Trang

BUỔI SÁNG TRỜI MƯA

Năm nay, tuyết ít lại nhiều mưa
Gió rét căm căm...thật chẳng vừa!
Trước ngõ ầm ầm con nước chảy
Hiên nhà xào xạc ngọn Thông đưa
May ghê...thức giấc không cần dậy
Thích lắm...về hưu khỏi phải bừa
Thoải mái cuộn tròn trong nệm ấm
Bao lần chồng gọi chả buồn thưa!

Thy Lệ Trang

★ Bài hoạ của Phương Hà

BÌNH MINH MƯA

Sáng sớm mà trời đã đổ mưa
Đắp thêm chăn ấm vẫn chưa vừa
Rào rào mái ngói từng cơn dội
Sầm sập cửa nhà mỗi đợt đưa
Xót kẻ gánh hàng không chỗ nghỉ
Thương người cày ruộng thế trâu bừa
Cảnh đời vất vả trong giông bão
Lo bữa cơm nghèo buổi chợ thưa.

Phương Hà

★ Bài hoạ của Quên Đi (Huỳnh Hữu Đức)

Chờ Xuân

Qua rồi những tháng ngập vì mưa
Tiết trở lạnh khô cũng mới vừa
Mặt nhật say vùi trong giấc mộng
Cỏ cây héo rủ gió mùa đưa
Ấm no đang đã sao lo rét
Hạnh phúc thực hư khéo nói bừa
Đông đến úa tàn bao ước vọng
Trông xuân mòn mỏi bạc đầu thưa.

Quên Đi

★ Bài hoạ của Như Thị (Lê Đăng Mành)

MƯA SẦU

Chiều đây thảm đạm cũng vì mưa
Tiễn cuộc tàn đông khắc khoải vừa…
Bến bãi buồn tênh nào kẻ gọi
Sông bờ lặng lẽ chẳng đò đưa
Đường quê quạnh quẽ trong mùa cấy
Nẻo xóm đìu hiu giữa chặng bừa
Xối xả ngoài song dầm rã rượi
Chen sầu miệng vẫn thốt lời thưa

Như Thị



★ Bài hoạ của Song Quang

Mưa đầu Xuân vẫn bên nhau

Trời mới đầu Xuân đã đổ mưa
Giọt rơi bao nhớ thấm cho vừa ?
Để ta âu yếm đem trao gởi
Mong bạn chung tình khỏi đợi đưa
Mặc gió chao nghiêng nào sợ ướt
Dẫu dù không mở cũng đi bừa
Bên nhau vẫn thấy lòng yên ấm
Chợ Tết ba mươi khách vắng thưa

Songquang

★ Bài hoạ của Minh Thuý

Mưa Chiều Đông

Lòng chiều bước dạo dưới cơn mưa
Áo lạnh quàng khăn ấm đủ vừa
Góc phố trời giăng mây xám ủ
Bên đường gió thổi lá vàng đưa
Sương mờ ngõ lối ai đi chậm
Nước đọng gương xe kẻ chạy bừa
Ánh điện đêm lên màu héo úa
Hoàng hôn lịm buốt bóng người thưa

Minh Thuý
9 tháng 1 _2019

★ Bài hoạ của Thanh Hoà

Sáng mưa

Sáng ngày tuyết tạnh lại dầy mưa
Nằm nán trong chăn mấy cũng vừa
Vắng vẻ tìm khôn ra kẻ đón
Đìu hiu kiếm khó được người đưa
Chẳng nề độc mã còn chăm ruổi
Không quản đơn thương vẫn gắng bừa
Sũng hạt mưa rơi thêm rét đậm
Cà phê lúc nẫy...khói mau thưa!

Thanh Hoà.

25 tháng 12 2018

C. Chỉ Hồng

<C.009><Điển tích văn học> 

Đề tài: CHỈ HỒNG 
Biên soạn: Đỗ Chiêu Đức


        Điển tích “ CHỈ HỒNG “ cũng được sử dụng rất nhiều trong văn học cổ Việt Nam ta, như khi nghe Kim Trọng tỏ tình, Thúy Kiều đã trả lời một cách rất khéo léo và khôn ngoan rằng :
    Dù khi lá thắm CHỈ HỒNG,
    Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

        Chỉ Hồng còn được nói trại đi thành CHỈ THẮM, như trong Tây Sương Ký :
    Nhân duyên sao khéo hẹn hò,
    Rắp đem CHỈ THẮM xe cho Trịnh Hằng.
        Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, Chỉ Hồng không gọi là Chỉ Thắm mà còn được gọi là DÂY THẮM như :
    Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
    Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.
    Ai ngờ trời chẳng cho làm
    Nở đem DÂY THẮM mà giam bông đào.
        Nhưng Dây Thắm, Chỉ Thắm hay Chỉ Hồng gì đều cùng một gốc Hán Việt là XÍCH THẰNG ( là sợi dây màu đỏ ) mà ra cả. Như lời Thúy Kiều đã nói với Kim Trọng trong lần đầu Kim Kiều hội ngộ :
    Nàng rằng hồng diệp XÍCH THẰNG,
    Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
        Hay như lời Mã Giám Sinh đã thề và hứa với Vương Viên Ngoại khi sắp lên đường ở “Bề ngoài mười dặm trường đình “ là :
    Cạn lời khách mới thưa rằng :
    Buộc chân thôi cũng XÍCH THẰNG nhiệm trao.
    Sau dù sinh sự thế nào,
    Kìa gươm nhật nguyệt nọ dao qủy thần !
        Hoặc như nàng cung nữ của trong Cung Oán đã than van oán trách :
    Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế,
    Sợi XÍCH THẮNG chi để vướng chân
        … và Xích Thằng hay Chỉ Thắm, Chỉ Hồng gì gì … đều do tay NGUYỆT LÃO mà ra cả. Nguyệt Lão đã xe Chỉ Hồng rồi thì … chạy trời không khỏi nắng, đôi lứa tất phải lấy nhau mà thôi, cho dù nàng cung nữ của Ôn Như Hầu có nghi ngờ thì cũng đành cam chịu :
    Tay NGUYỆT LÃO chẳng xe thì chớ,
    Xe thế nầy có dở dang không ?
        Đôi khi Nguyệt Lão còn được gọi là NGUYỆT SỨ, như trong truyện Từ Thức gặp Tiên :
    Lọ là NGUYỆT SỨ băng môi,
    Phận này duyên ấy ắt thời trong tay.
        Nguyệt Lão là từ nói gọn lại của nhóm từ “ NGUYỆT HẠ LÃO NHÂN 月下老人“ là “Ông gìa dưới trăng “, vì chuyên xe tơ cho trai gái lấy nhau, nên còn được gọi là ÔNG TƠ, như khi Kim Trọng đến từ biệt Thúy Kiều để đi Liêu Dương hộ tang chú, thì Thúy Kiều cũng đã oán trách :
    ÔNG TƠ ghét bỏ chi nhau,
    Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.
        Hay khi bị Hồ Tôn Hiến ép gã cho thổ quan, Thúy Kiều lại một lần nữa lên tiếng oán trách :
    ÔNG TƠ sao khéo đa đoan,
    Xe tơ sao lại vơ quàng vơ xiên ?!
        Vậy, Ông Tơ là ai, Nguyệt Lão là ai, chuyện xe tơ là như thế nào mà người thì cam chịu, người thì “đổ thừa “, người thì oán trách … Mời đọc tiếp phần xuất xứ sau đây sẽ rõ.

        Điển tích Chỉ Hồng, Chỉ Thắm, Dây Thắm, Xích Thằng, Ông Tơ hay Nguyệt Lão … có xuất xứ như sau :

Nguyệt Lão và Vi Cố

        Theo Tục U Quái Lục của Lý Phục Ngôn đời Đường 唐朝文学家李复言所著的《续玄怪录 : Vào năm Đường Trinh Quan thứ hai (638), đất Đỗ Lăng có thư sinh Vi Cố韋固, con nhà thế gia vọng tộc. Cha mẹ mất sơm, nên Cố đi du học bốn phương, vừa để học tập cầu tiến vừa để tìm kiếm hôn nhân. Khi đến Tống Thành, có người mai mối cho Vi Cố cưới con gái của quan tiền nhiệm huyện Thanh Hà là Tư Mã Phan làm vợ. Hẹn rằng sáng sớm hôm rằm sẽ gặp người mai mối ở trước cửa chùa Long Hưng Tự ở Nam Điếm để nói chuyện.

        Đến hẹn, Vi Cố vì nóng lòng với chuyện hôn nhân nên đêm đó không ngủ được. Trời chưa sáng mà đã lần mò đến trước cửa chùa. Bỗng chàng trông thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, tiên phong đạo cốt ngồi trên bậc tam cấp trước cửa chùa đang giở xem một quyển sách. Hiếu kỳ chàng bèn đi tới ghé mắt nhìn vào, thì ngạc nhiên làm sao, trên sách là loại chữ rất đặc biệt không sao đọc được. Chàng bèn khẩn khoản hỏi thăm ông lão, thì được ông lão cho biết đó không phải là chữ của nhân gian, và bản thân ông cũng không phải là người của nhân gian nữa. Hiếu kỳ và thích thú, Vi Cố hỏi trong sách ghi chép những gì, thì ông lão cho biết đó là sách ghi chép tất cả những cuộc hôn nhân của trai gái trên đời nầy. Đoạn ông lấy ra một cuộn chỉ đỏ và giải thích rằng, khi ông đã buộc chỉ đỏ nầy vào chân của cặp trai gái nào rồi, thì dù cho có quan san cách trở hay thù oán lẫn nhau gì gì đi nữa, thì rốt cuộc cũng sẽ thành vợ thành chồng với nhau mà thôi.

        Trong lúc đang tìm kiếm hôn nhân, Vi Cố bèn hỏi ông lão xem có biết mình chừng nào kết hôn và vị hôn thê của mình là ai không ? Ông lão bèn lật sách ra xem rồi nói rằng : Vợ của Vi Cố năm nay mới có ba tuổi và phải mười bốn năm sau thì hai người mới kết hôn được. Đang lúc nóng lòng muốn cưới vợ, nghe ông lão nói thế, Vi Cố nản qúa bèn hỏi tới rằng : “ Vậy chớ bây giờ vợ tôi đang ở đâu ?”. Ông lão đáp là : “ Vợ của cậu đang ở tại đây, ở phía bắc của Nam Điếm nầy, đang do một người đàn bà bán cải trông nom. Cậu đừng nóng ruột, trời sáng thì sẽ gặp mặt thôi !”

Nguyệt Lão và Vi Cố

        Khi trời đã sáng hẵn rồi, mà người mai mối ước hẹn với Vi Cố cũng không thấy tới. Ông lão ngồi dưới trăng cũng cất sách vào bọc. Đoạn đứng dậy bảo Vi Cố đi theo ông ta vào chợ. Khi đến hàng cải, thấy có người đàn bà một mắt tay đang ẵm một đứa bé mũi dãi thò lò, đang mua cải. Ông lão bèn chỉ vào cô bé gái bảo : “Đây là vợ cậu đó !”. Vi Cố nghe xong cả giận nói : “ Nếu lời nói của ông không sai, thì tôi sẽ giết con bé nầy !”. Ông lão cười bảo : “Đây là mạng số đã an bày, e rằng cậu sẽ không giết nổi cô ấy đâu !”. Nói đoạn, ông lão quay lưng bỏ đi mất.

        Vi Cố là con nhà thế gia vọng tộc, cho là ông lão cố ý làm nhục mình, nên khi về đến nhà trọ, bèn đưa một con dao nhỏ cho một gia đồng, bảo ra chợ đâm chết con bé gái của người đàn bà một mắt. Trong thời buổi phong kiến, thì việc con nhà quyền thế, cậy quyền cậy thế để giết hại người nghèo cũng là chuyện thường tình, còn các đầy tớ do chủ nuôi thì cứ sai đâu đánh đó, nhắm mắt làm càng. Tuy nhiên, mạng người hệ trọng, giữa chợ giữa búa lại là lúc ban ngày ban mặt mà dám giết người giữa chợ thì cũng không phải là chuyện tầm thường. Nên khi ra đến chợ, tên gia đồng lừa thế đâm đứa bé một nhát rồi bỏ chạy trối chết. Khi về đến nhà trọ Vu Hựu hỏi kết qủa thế nào. Tên gia đồng bảo là vì có người đàn bà che chở, nhưng vẫn đâm trúng một nhát vào đứa bé, còn sống chết ra sao thì chưa biết !

        Sau vụ om sòm ngoài chợ, Vu Hựu cũng hối hận cho sự nóng giận bồng bột của mình, nên bỏ đi nơi khác. Những năm sau đó chàng tiếp tục tìm người hôn phối khắp nơi để cầu hôn, nhưng đều thất bại, cộng thêm mấy lần thi rớt, công danh không thành, hôn phối không xong, gia cảnh ngày một khốn khó. Cuối cùng, chàng đành phải dẹp lòng tự ái tự trọng để xin một chức phụ ấm của cha để lại : làm Tham Quân cho xứ Tương Châu. Lúc bấy giờ chàng đã ngoài ba mươi tuổi và vẫn còn độc thân trơ trọi có một mình.

        Thứ sử Tương Châu là Vương Thái thấy chàng tướng mạo đoan trang, lại có văn tài, giao cho chàng kiêm nhiệm luôn về tư pháp ty của địa phương, chàng đều hoàn thành thật xuất sắc. Thấy chàng đã ngoài ba mươi mà chưa thành gia lập thất, nên Vương bèn gả con gái út cho chàng làm vợ. Cầu hôn suốt mười mấy năm trời đều thất bại, bỗng dưng được vợ, lại là con gái cưng của thượng cấp, Vi Cố vui mừng quá đổi.

Vi Cố cưới vợ

        Đêm động phòng hoa chúc, thấy cô dâu Vương Thị chỉ khoảng mười bảy mười tám tuổi, xinh đẹp vô cùng, lại theo thời trang đính một hoa vàng ở giữa đôi mày trông càng xinh xắn kiểu dáng vô cùng. Vi Cố rất thỏa mãn và hạnh phúc với cô vợ trẻ đẹp này. Nhưng không biết vì sao đóa hoa vàng làm dáng ở giữa mày, cả khi đi ngủ đi tắm nàng cũng không chịu mở ra, khiến Vi Cố vô cùng thắc mắc.

        Một hôm, khi vợ chồng đang trò chuyện thân mật với nhau, chàng mới thừa cơ hỏi rõ nguyên do. Nàng bèn cười mà đáp rằng : “Đó chẳng qua là tính thích làm đẹp của phái nữ, muốn giữ cho đẹp mà thôi !” Đoạn kể cho chàng nghe về lai lịch của mình. Thì ra, nàng không phải là con ruột của Vương Thứ Sử, chỉ là cháu gọi bằng chú mà thôi. Lúc nhỏ vì trên đường đi làm quan xa, cha nàng bị bệnh mất sớm, chẳng bao lâu mẹ cũng buồn rầu mà mất theo. Lúc đó nàng chỉ mới ba tuổi, phải sống nương nhờ vào bà vú nuôi, trồng cải ở mảnh đất sau nhà, nên mỗi ngày phải ra chợ bán cải cho bạn hàng. Một hôm không biết vì cớ gì có một kẻ côn đồ cầm dao định đâm nàng chết, may mà bà vú nhanh mắt tránh sang một bên, nên chỉ sướt qua giữa chân mày, vì thế mà nàng phải đính một đóa hoa vàng để che đi cái thẹo còn để lại. Sau đó chú nàng là Vương Thái tìm đến đem nàng về nuôi nấng và nhận làm con nuôi.

        Vi Cố nghe xong cả kinh, mồ hôi ra ướt cả mình, hỏi lại rằng : “ Có phải bà vú của nàng là người đàn bà chỉ có một mắt hay không ?” Vương Thị cũng rất ngạc nhiên mà hỏi lại rằng : “ Sao chàng lại biết ?!”. Đến nước nầy, Vi Cố bèn kể lại chuyện Nguyệt Lão là Ông gìa dưới trăng đã định sẵn hôn nhân của hai vợ chồng cho nàng nghe. Vương Thị cũng vô cùng cảm khái cho cuộc hôn nhân tiền định nầy, vì thế mà vợ chồng càng yêu thương khắn khít nhau hơn là những cặp vợ chồng thường khác.

        Vi Cố vì hưởng phụ ấm mà được chức quan nhỏ, nhưng nhờ gia đình bên vợ nâng đở, nên đường hoạn lộ cũng hanh thông. Sau nhờ con trai trưởng là Vi Cổn bình loạn có công, được phong làm Thái Thú Nhạn Môn Quan, lại được vua ban hàm Tướng Quân, mẹ là Vương Thị cũng được phong hàm Thái Nguyên Quận Thái Phu Nhân. Vì thế, mà câu chuyện Nguyệt Lão ở Nam Điếm của Tống thành ngày xưa được nhân gian truyền tụng và nhắc nhở. Huyện lệnh Tống Thành bèn đổi Nam Điếm thành Định Hôn Điếm定婚店là nơi Định đoạt Hôn Nhân của người thế gian, đồng thời cũng cho xây miếu để thờ phượng Ông Già Dưới Trăng, gọi là Nguyệt Lão Miếu月老廟.

Nguyệt Hạ Lão Nhân Miếu

        Ngày nay, khắp nơi đều có miếu thờ Nguyệt Lão, nếu không thì cũng có bàn thờ Nguyệt Lão được thờ chung với các vị thần khác ở tất cả các miếu. Riêng ở Trung Hoa thì miếu thờ Nguyệt Lão có ở khắp nơi trong nước, nhưng nổi tiếng nhất là Nguyệt Lão Miếu ở Hàng Châu, không phải vì nó đẹp và linh thiêng hơn các nơi khác mà vì nó có nét cổ kính và nhất là đôi câu đối bất hủ ở hai bên cổng miếu không biết do danh sĩ nào đã làm ra :
Nguyện thiên hạ hữu tình nhân chung thành liễu quyến thuộc,
願 天 下 有 情 人 终 成 了 眷 屬,
Thị tam sanh chú định sự mạc thác qúa nhân duyên !
是 三 生 註 定 事 莫 錯 過 良 緣。
Có nghĩa : 
Mong cho tất cả tình nhân trong thiên hạ, đều được nên gia thất,
Là chuyện tiền định từ ba kiếp trước, đừng để lở mất duyên lành !

Rất bình dân, rất nên thơ mà cũng rất thực tế, rất thiệt tình !

Tượng Nguyệt Lão

        Còn một chuyện rất mỉa mai đến buồn cười là : Nguyệt Lão ở Trung Hoa là Ông Gíà Dưới Trăng lẻ loi đơn độc có một mình. Mặc dù chuyên xe tơ kết tóc cho người đời nên duyên chồng vợ với nhau, nhưng sang qua Việt Nam, có thể dân ta thấy tội nghiệp cho ông suốt đời chỉ mai mối cho người khác còn mình thì vẫn lẻ loi, và theo quan niệm của người Việt Nam ta, có “Ông” thì phải có “Bà”, nên mới “cưới” cho ông một “ Bà Nguyệt “ nữa, thành một cặp “Ông Tơ Bà Nguyệt”, và thành ngữ “Ông Tơ Bà Nguyệt” chỉ có trong ngôn ngữ và văn chương Việt Nam ta mà thôi, chớ ở bên Tàu thì “Ông Tơ” là Nguyệt Lão vẫn chỉ trơ trọi có một mình, không biết chuyện trai gái là gì cả, nên mới bị nàng Cung phi của Nguyễn Gia Thiều bỡn cợt :
Tay NGUYỆT LÃO khờ sao có một
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
Cái đêm hôm ấy đêm gì?
Bóng gương lồng bóng đồ mi trập trùng.
  
 Đỗ Chiêu Đức

 

Giấc ngủ dưới trăng

<D.408><Cảnh Trăng Sao>



GIẤC NGỦ DƯỚI TRĂNG

Trăng rằm rực sáng toả trời mơ
Đuổi bắt tầng mây dẫn mộng hờ
Lặng lẽ thông nằm say giấc ngủ
Êm đềm nguyệt tỏ sánh hồn thơ
Tia tràn bủa gợn vùng hoang dã
Nhạc trỗi chìm loang khúc ảo mờ
Thoải dáng ngà phơi hòn mỹ ngọc
Thuần nhiên cảnh tịnh cõi vô bờ.

Mai Thắng
181225

------------------
★ Bài xướng của Phương Hà

GIẤC NGỦ ĐÊM TRĂNG

Vằng vặc đêm rằm gợi mộng mơ
Em say giấc điệp, dáng ơ hờ
Buông lơi, mái tóc như dòng suối
Mềm mại, thân hình tựa áng thơ
Hơi thở phập phồng sau lụa mỏng
Bờ hông thấp thoáng dưới sa mờ
Trăng lùa khe cửa rơi trên áo
Lai láng mênh mông chẳng bến bờ...

Phương Hà
Tháng 12/2018)

Hư Ảo Đời Thường

<D.407~Cuộc Sống>



HƯ ẢO ĐỜI THƯỜNG

Vẫn cảm quay cuồng chuyện lứa đôi
Đường duyên dẫu tiếc cũng qua rồi
Âu đành phận mỏng se hờ mối
Cám lẽ tơ hồng để vuột trôi
Dạ rỗng không buồn ngơ muốn hỏi
Lòng tiu nghỉu nguyện khấn thay lời
Trần gian bỗng chốc đầy hư ảo
Nếu lỡ chưa thành phải vậy thôi.

Mai Thắng
181224

----------------
★ Bài xướng của Nhung Nguyễn

CHỈ LÀ HƯ ẢO

-nđt-

"Châu về Hợp Phố" để thành đôi
Số định rằng duyên phải rã rồi
Có lẽ hoa tàn hương chẳng quyện
Nên đành kiếp bạc nghĩa dần trôi
Buồng tim quặn thắt vì câu hỏi ...
Tấc dạ sầu u bởi những lời ...
Cõi tạm trần gian là chốn ảo
Gom nhiều khổ luỵ thế mà thôi.

BL 15.12.18

----------------
★ Bài hoạ của Tường Vân

HỜN ĐÔNG

Vẫn chỉ phương này một bóng thôi
Chìm trong kỷ niệm lãng quên rồi
Tan chiều cánh nhạn sầu đơn chiếc
Rã phiếm tương cầm mộng lẻ đôi
Rượu đã tràn môi tình chẳng hẹn
Thuyền chưa đỗ bến bạn quên lời
Đông về gió lạnh lùa nghiêng cửa
Có mảnh trăng buồn lạnh lẽo trôi...

Tường Vân - 23/12/18

--------------
★ Bài hoạ của Tuyết Lan

NHỚ VẦNG TRĂNG ẢO

Tĩnh lặng đêm trường bóng lẻ đôi
Hoài thương một nỗi mấy đông rồi
Cho lòng mỗi nét thơ thầm quyện
Để sóng bao chiều mộng khẽ trôi
Quạnh quẽ tình mang giờ ngỏ tiếng
Đìu hiu dạ thắt bỗng thay lời
Tương quỳnh đã ấm vầng trăng ảo
Tựa cửa song buồn nhớ mãi thôi

Tuyết Lan 25-12-18

X81. Cát Bụi Thời Gian

<D.406~Thiên Nhiên Khí Tiết> 



CÁT BỤI THỜI GIAN

Tàn đông nhẹ gánh bão giông dồn
Vẫn nặng sương chiều cảnh ám hôn
Cội liễu bờ khuya đèn lả bóng
Cà phê giọt đắng ảnh vô hồn
Âm thầm thủ ác rồi che đậy
Lặng lẽ qua ngày để lấp chôn
Những mái đầu xưa giờ chuyển bạc
Buồn thay thói bạo mãi không chồn.

Mai Thắng
@1393~181223

★ Bài xướng của Thầy Nguyễn Hữu Lộc
Cảm tác những ngày cuối năm gởi VTT cùng bạn thơ

THỜI GIAN

Vun vút thời gian vó ngựa dồn
Vừng hồng chưa thưởng, tím hoàng hôn.
Canh dài trằn trọc thâm quầng mắt
Đêm trắng sầu tư giá buốt hồn.
Xơ xác vườn thu mưa tối dập
Lưa thưa đầu bạc gió tây vờn.
Năm tàn, một tuổi, lòng xao xuyến
Buông xả muộn phiền quá khứ chôn.

Mailoc
12-21-18

★ Bài hoạ của Đỗ Chiêu Đức

THỜI GIAN

Thời gian vùn vụt bóng câu dồn,
Vừa sáng chưa cười chợt ám hôn.
Tuổi trẻ thoáng qua ngơ ngác mộng,
Già nua ụp xuống tái tê hồn.
Nhân sinh Phạn Điển nhất na sát,*
Sự nghiệp Hòe An một giấc vờn.
Vinh nhục thị phi thành dữ bại,
Bần cùng cự phú thảy vùi chôn !

Đỗ Chiêu Đức

* Chú thích:

PHẠN ĐIỂN (tức kinh điển Phật giáo) ghi: Phạn Điển Nhất Na Sát (tức là Một Sát Na trong Kinh Phật), như sau :
Nhất sát na vi nhất niệm.
Nhị thập niệm vi nhất thuấn.
Nhị thập thuấn vi nhất đàn chỉ.
Nhị thập đàn chỉ vi nhất la dự.
Nhị thập la dự vi nhất tu du.
Nhất nhật nhất dạ hữu tam thập tu du.

梵典:
一刹那为一念
二十念为一瞬
二十瞬为一弹指
二十弹指为一罗预
二十罗预为一须臾
一日一夜有三十须臾

Có nghĩa :

1 sát na là 1 niệm
20 niệm là 1 thuấn
20 thuấn là 1 đàn chỉ
20 đàn chỉ là 1 la dự
20 la dự là 1 tu du
1 ngày 1 đêm có 30 tu du.
Tức 1 ngày 1 đêm có 24 tiếng đồng hồ, có 4.800.000 sát na, hoặc 240.000 thuấn, 12.000 đàn chỉ, 600 la dự, 30 tu du.

Nói cách khác:

1 ngày 1 đêm có 86.400 giây,
1 tu du là 2880 giây
1 la dự là 144 giây
1 đàn chỉ là 7,2 giây (3)
1 thuấn là 0,36 giây
1 sát na chỉ có 0,018 giây.

* Lời bình của Thầy Mai Lộc:

Một bài họa vừa hay vừa để cho ta hiểu biết thêm một chút về kinh điển Phật giáo thật lý thú. Cám ơn Chiêu Đức. Cảm phục tài Thầy Đồ
Thân mến
ML

★ Bài hoạ của Cao Linh Tử

Thời Gian

Bao năm sóng dập gió mưa dồn
Đất phủ màu thiên ám địa hôn
Máu thịt trên bàn tay ngạ quỷ
Lương năng dưới đáy vực tâm hồn
Họa hoằng chút nắng xuân chiều rọi
Thi thoảng vài nơi ánh nguyệt vờn
Đóng kịch lâu dần như sỏi sạn
Người thân từng đứa đã đem chôn.

Cao Linh Tử
22/12/2018

Cảm Cái Thân Già

<D.405~Thơ Vui>



CẢM CÁI THÂN GIÀ

Ít bữa an lành đổi một nhem
Ngày đông bão sót họng e hèm
Đầu long phổi ứ hơi nhèm nhẹm
Mũi nhảy tim chèn mặt lấm lem
Hỏi nhãng cầu may nào đợi sém
Chờ mang gán nợ chả mong thèm
Trầm tư mặc cảm mà gom ghém
Vịnh khúc ca trù thả chữ xem.

Mai Thắng
181222

★ Bài hoạ của Lê Xuân Phượng

ĐÁNG ĐỜI

CHUI RÚC xó nào lúc nhá NHEM
MÀ SAO mặt mũi dính toàn HÈM?
BẦM TRẦY trán trợt, tai thì NHẸM
BÓNG NHẨY môi phồng, mặt lại LEM?
VỚ VẨN đong đưa, quần cháy SÉM
Ù LÌ nhí nhố, miệng trông THÈM
THÔI ĐÀNH cùng gấu "măm" cà GHÉM
HY VỌNG yên lành, cứ thử XEM!

MA 291218
Trạng Lụi-Phương Lê
* Ghi chú: MA = địa danh xã Mỹ An huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp

22 tháng 12 2018

Đầy tháng cháu nội

<D.404~Thơ Sinh Nhật> 

Năm mừng tiếng cháu oa oa
Vui hoà “cặp sáu” (66) hót ca phúc lành
Ứơc thêm từng gậy đồng hành
Khung trời đại học treo dành đuổi mơ.





ĐẦY THÁNG CHÁU NỘI

Bật khóc oà oa vỡ mảng đời
Chen vào hạ thế khoảng trần chơi
Ngày qua đẹp mốc đầu yên ổn
Hỉ báo hồng tin ngưỡng tuyệt vời
Mở mắt nhìn thăm dò cõi thực
Ghi vần chúc tụng phả nguồn hơi
Niềm vui trọn tháng tâm toàn mỹ
Tiếp chuyển nhiều hơn vẹn chữ thời.

Mai Thắng - 
181222



21 tháng 12 2018

Nỗi Nhớ Mùa Đông

<F.242~Bốn Mùa> 


NỖI NHỚ MÙA ĐÔNG

Đang mùa giá đổ tiết vào đông
Cái lạnh se se thoảng mặn nồng
Chạnh cảm đường tơ đan sót chỉ
Xuôi miền tưởng nhớ ủ chờ trông

Len vào cảm thức cõi huyền không
Thao thức tàn canh dỗ mộng hồng
Khấn nguyện phương trời êm giấc ngủ
Cho màu cuộc sống kết tràng bông

Vơi đầy cảm xúc chuỗi hoài mong
Những phút buồn vui ấm lạnh lòng
Ảnh lộng trời face vờn thực ảo
Say hoà cõi sóng chả buồn đong

Xin gìn kỷ niệm mảnh hồn trong
Giữ mãi vần thơ chẳng cạn dòng
Ví phỏng mai này mình gặp mặt
Trao màu mắt gợi ẩn tình hong

Mai Thắng –
&151~181220

★ Bài xướng của Dung Nguyên

NỖI NHỚ MÙA ĐÔNG

Em hong nỗi nhớ giữa mùa đông
Cái rét hanh hao bỗng chạnh lòng
Chẳng biết bao giờ vơi khắc khoải
Cho mùa tan giá hết buồn trông?

Nẻo ấy bây giờ có lạnh không?
Hình như ánh nắng vẫn tươi hồng
Màu hoa nở thắm tràn hi vọng
Giữa khoảng xa trời mây trắng bông ...

Những tháng năm dài em đợi mong
Nào anh có hiểu mối tơ lòng
Dầu xa mãi khắc hình ai đó
Dẫu mấy đông chờ chẳng đếm đong!

Người ơi xin được có đôi dòng
Giữ mối duyên tình mãi trắng trong
Chỉ ước một lần ta gặp mặt
Điều ta ấp ủ thỏa mơ nồng...

20/12/2018
DUNG NGUYÊN

Con Giáp Cuối Cùng

<D.403~Thơ Xuân>



CON GIÁP CUỐI CÙNG

Điểm mười hai giáp cuối là HEO
Cuộc sống ngủ ăn đếch sợ nghèo
Thiếu đủ đời lo rồi phó mặc
Sang hèn tớ hưởng chả cầu theo
Mai ngày tận phúc lên mâm cổ
Thần khí linh thiêng rũ phận bèo
Những mối đe ràng luôn hiểu rõ
Thân còn hữu ích mới là HEO.

Mai Thắng
@1400~181221

★ Bài xướng của Đỗ Chiêu Đức

Chi Thứ 12

Bao chót Địa Chi chú Hợi heo,
Tranh danh đoạt lợi mặc người theo.
Ăn no ngủ kỷ không lo nghĩ,
Cao chẩm vô ưu chẳng sợ nghèo.*
Lợn cấn lợn sề thường tốn cám,
Heo con heo mọi lại ăn bèo.
Quan hôn tang tế heo làm trước,
Hiếu hỉ trình làng có mặt heo !

Đỗ Chiêu Đức



★ Bài hoạ của Mai Xuân Thanh

KỶ HỢI

Địa Chi cuối bảng "Hợi" là heo
Ủn ỉn no nê lắm kẻ theo
Khổ trí gì đâu không sợ khó
Lao tâm chi nữa chẳng lo nghèo
Nuôi heo lúa thóc luôn cho cám
Dưỡng nái chuối cây rẽ tựa bèo
Giỗ chạp lợn nguyên mâm cổ trước
Bà con hiếu hỉ lễ đầu heo...

Mai Xuân Thanh
Ngày 19/12/2018

★ Bài hoạ của Cao Linh Tử

Mười Hai Con Giáp

Ai bày năm chuột đến năm heo
Cứ vậy dân mình tuổi dính theo
Bói quẻ cầu âu lìa nạn khổ
Lần tay ước vọng giải cơn nghèo
Trâu rồng chẳng giúp người danh giá
Khỉ rắn không gây số bọt bèo
Tam hạp hành xung bàn tở bở
Nhiều khi mai mối hụt đầu heo.

Cao Linh Tử
21/12/2018

★ Bài hoạ của Phương Hà

SỐNG VUI, THÁC ÍCH

Một vòng con giáp, cuối là heo
Bao chót cuộc chơi chậm rãi theo
Chẳng hám bon chen, đời chẳng khổ
Không lo suy nghĩ, phận không nghèo
Luôn mồm sục sạo dù rau cháo
Mãi bụng no căng dẫu cám bèo
Già lão, ốm đau nào vướng bận
Sống vui, thác ích....ấy loài heo !

Phương Hà