14 tháng 1 2021

Thơ Nguyễn Trãi – Phần A

<C.047~Việt thi>
NGUYỄN TRÃI 
Phần A: TRƯỚC KHI THÀNH DANH
Thời Hậu Lê VN 
(Đỗ Chiêu Đức sưu tầm)




 Bài 1. THÍNH VŨ

1.1. Nguyên bản 

聽雨                          
寂寞幽齋裏,      
終宵聽雨聲。    
蕭騷驚客枕,      
點滴數殘更。      
隔竹敲窗密,     
和鐘入夢清。      
吟餘渾不寐,      
斷續到天明。      
阮廌                              

1.2. Phiên âm

THÍNH VŨ 
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu hao kinh khách chẩm
Điểm trích sổ tàn canh
Cách trúc xao song mật 
Hoà chung nhập mộng thanh
Ngâm dư hồn bất mị
Đoạn tục đáo thiên minh.
NGUYỄN TRÃI 

1.3. Dịch nghĩa 

Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.

1.4. Dịch thơ

NGHE MƯA

Thư phòng đêm tỉnh mịch
Nghe rả rích canh dài
Khách ngậm buồn da diết
Mưa tuôn đổ miệt mài
Xạc xào bên bụi trúc
Vang vọng giữa màng tai
Thao thức hoài không ngủ
Nhịp đều tận ánh mai

Mai Thắng  
190930

---------------------- 

 Bài 2. KÝ HỮU

2.1. Nguyên bản 

寄友                                     
半生世路嘆屯邅    
萬事惟應付老天    
寸舌但存空自信    
一寒如故亦堪憐    
光陰焂忽時難再     
客舍凄涼夜似年     
十載讀書貧到骨     
盤惟苜蓿坐無氈。 
阮廌                                   

2.2. Phiên âm 

KÝ HỮU 
Bình sinh thế lộ thán truân chiên
Vạn sự duy ưng phó lão thiên
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín
Nhất hàn như cố diệc kham liên
Quang âm thúc hốt thời nan tái
Khách xá thê lương dạ tự niên
Thập tải độc thư bần đáo cốt
Bàn duy mục túc, toạ vô chiên
NGUYỄN TRÃI 

2.3. Dịch nghĩa 

Bình sinh đường đời nhiều vất vả quá thể
Vạn việc chỉ nên phó cho trời già
Tấc lưỡi hãy còn, tưởng cũng tự tin được
Cứ một cảnh nghèo như cũ thật đáng thương
Ngày tháng (sáng tối) đi qua vùn vụt khó mà trở lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như cả một năm
Mười năm đọc sách (học hành) mà nghèo đến tận xương
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu. 

2.4. Dịch thơ 

GỬI BẠN

Sau loạn người rơi tựa lá hồng
Chân trời tin nhạn hút vời trông
Ba canh đắm mộng hồn quê dõi
Trùng dế kêu vang bốn vách lồng
Đỗ lão tâm tình hương Vị Bắc
Quản Ninh di trú khách Liêu Đông
Việt Trung ước được lời thăm hỏi
Lời đáp sinh nhai quyện cỏ bồng.

Mai Thắng  
190930

------------------------ 

 Bài 3. LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC

3.1. Nguyên bản 

亂後到崑山感作      
一別家山恰十年      
歸來松菊半翛然      
林泉有約那堪負      
塵土低頭只自憐      
鄉里纜過如夢到      
干戈未息幸身全      
何時結屋雲峰下      
汲澗烹茶枕石眠      
阮廌                                  

3.2. Phiên âm

LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên
Hương lý tài qua như mộng đáo
Can qua vị tức hạnh thân tuyền
Hà thời kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên
NGUYỄN TRÃI 

3.3. Dịch nghĩa 

Sau loạn về Côn Sơn cảm tác
Rời vùng quê miền núi nầy thoắt cái đã mười năm rồi.
Nay về thăm lại tùng, cúc đã tiêu điều quá nửa.
Đã có hẹn ới dòng suối nơi đây thì không nở phụ ước,
Cúi đầu nhìn đất quê mà thương thân mình lưu lạc,
Làng xóm thoáng qua như trong giấc mộng,
Chiến tranh còn dai dẵng, may mà thân được bảo toàn,
Bao giờ mới dựng một mái tranh dưới mây gió nầy,
Lấy nước suối pha trà và gối đầu lên tảng đá mà ngủ.

3.4. Dịch thơ

SAU LOẠN VỀ CÔN SƠN

Thắm thoắt mười năm biệt cố hương
Cúc tùng quá nửa nhuốm thê lương
Núi rừng hẹn ước ngày quay lại
Mảnh đất đê đầu mối cảm thương
Thôn xóm vờn qua như giấc mộng
Chiến tranh còn giữ tấm thân vương
Bao giờ kết thúc trời mây tạnh
Gối đá nằm ru ngủ dưới sương.

Mai Thắng  
141114

----------------------

 Bài 4. QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC

4.1. Nguyên bản 

归昆山舟中作        
十年飄轉嘆蓬萍, 
歸思搖搖日似旌。 
幾托夢魂尋故里, 
空將血淚洗先塋。 
兵餘斤斧嗟難禁, 
客裡江山只此情。 
鬱鬱寸懷無奈處, 
船窗推枕到天明。 
阮廌                                  

4.2. Phiên âm 

QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình
Quy tứ dao dao nhật tự tinh
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý
Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh
Binh dư cân phủ ta nan cấm
Khách lý giang sơn chỉ thử tình
Uất uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
NGUYỄN TRÃI

4.3. Dịch nghĩa 

Mười năm phiêu dạt như cỏ bồng cánh bèo
Ý muốn trở về ngày nào cũng nao nao (như cờ dựng trong trí)
Bao lần gửi hồn trong mộng về làng cũ
Mang bằng tưởng tượng huyết lệ về tẩy mộ tổ tiên
Than ôi, sau loạn lạc làm sao cấm cản được vụ búa rìu?
Trong cảnh khách này chỉ có mối tình ấy với giang sơn
Tấc lòng u uất thật khó xử
Song cửa thuyền lay gối mãi đến sáng trời.

* Côn Sơn: Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.

4.4. Dịch thơ

THUYỀN VỀ CÔN SƠN

Mười năm phiêu dạt cảnh bồng bềnh
Kiếp sống giang hồ phận nổi nênh
Gửi mộng hồn về quê thất tán
Gìn tiên mộ rưới lệ trôi dềnh
Kiếm đao sau loạn còn rơi rớt
Đất khách trong thời cũng bấp bênh
U uất lòng đau canh cánh mãi
Khoan thuyền tỏ rạng ánh bình minh.

Mai Thắng  
191007

--------------------- 

 Bài 5. LONG ĐẠI NHAM

5.1. Nguyên bản 


龍岱岩   
去年虎穴我曾窺, 
龍岱今觀石窟奇。 
鰲負出山山有洞, 
鯨遊塞海海為池。 
壼中日月天難志, 
世上英雄此一時。 
黎范風流嗟漸遠, 
青苔半蝕璧間詩。 
阮廌                                  

5.2. Phiên âm 

LONG ĐẠI NHAM
Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy
Long Đại kim quan thạch quật kỳ
Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động
Kình du tắc hải, hải vi trì
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão
Thế thượng anh hùng thử nhất thì
Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn
Thanh đài bán thực bích gian thi.
NGUYỄN TRÃI 

5.3. Dịch nghĩa 

Năm trước ta đã từng xem hang cọp
Nay lại đến xem động Long Đại, một động núi lạ
Con ngao đội núi lên thành động
Cá kình bơi lấp biển thành ao
Trong bầu nhật nguyệt trời khó già
Anh hùng trên đời thì chỉ là một thuở
Nếp sống phong lưu của hai họ Lê và Phạm than ôi cũng xa dần
Thơ trên vách đá cũng đã bị rêu xanh gấm nhậm rồi.

5.4. Dịch thơ

NÚI LONG ĐẠI

Hổ huyệt năm xưa đã ngó vào
Nay nhìn Long Đại dáng kỳ cao
Ngao nâng phiến tảng, non thành động
Kình quẫy khơi trùng, biển hóa ao
Nhật nguyệt trong bầu vơ lão vất
Anh hùng giữa thế được thời khao
Tài hoa Lê Phạm dần phai nhãng
Tựa nửa bài thơ vách đá bào.

Mai Thắng 
191008

Không có nhận xét nào: