25 tháng 2 2019

Bể Dâu

<C.019~Điển tích văn học>
Đề tài: BỂ DÂU
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC


        Thành ngữ Điển tích BỂ DÂU còn được nói thành DÂU BỂ, và là nói gọn lại của nhóm từ "Bãi Bể hoá Nương Dâu" dịch từ gốc Hán Việt là "Thương Hải Tang Điền 滄海桑田 ", có thể đão thành "Tang Điền Thương Hải", và trong văn chương văn học Việt Nam ta hay sử dụng từ "Thương Tang" hay "Tang Thương", như trong bài "Thăng Long Thành Hoài Cổ" của bà Huyện Thanh Quan :
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với TANG THƯƠNG.

        Điển tích nầy thường dùng để chỉ cảnh vật hoặc chuyện đời thay đổi một cách nhanh chóng, vô chừng, đến đổi không thể ngờ trước được, theo tích sau đây :
        Thái Bình Quảng Ký, quyển 60, theo Thần Tiên Truyện của Cát Hồng đời Tấn : Vào đời Hán Hiếu Hoàn Đế có hai tiên nhân, một người là Vương Viễn, tự là Phương Bình; một người là Ma Cô Tiên cô. Có một bận, Vương Phương Bình giáng lâm nhà bạn là Thái Kinh với một đoàn tuỳ tùng tiền hô hậu ủng thật rình rang và ngồi trên tiên xa do năm con rồng kéo đến. Nhưng khi vừa giáng xuống sân nhà thì tất cả tùy tùng đều biến mất, chỉ thấy Vương Viễn uy phong lẫm liệt như một vị tướng quân. Sau khi ra mắt người nhà Thái Kinh, Vương bèn ngẩn đầu lên không trung đưa tay ngoắt ra dấu cho người đi mời Ma Cô Tiên. Một lát sau, sứ giả từ không trung báo xuống : " Ma Cô Tiên Cô bảo rằng đã hơn năm trăm năm chưa gặp được tiên sinh, nhưng vì bận phải đi tuần du tiên đảo Bồng Lai, sẽ đến trong chốc lát". Vương khẻ gật đầu. Ngồi đợi trong giây lát, bỗng nghe trên không trung tiếng nhạc vang lừng, Ma Cô từ không trung giáng xuống với y trang rực rỡ, tóc mây buông dài trông như cô gái mười tám đôi mươi của thế gian. Sau khi cùng nhau hành lễ, Vương cho người nhà bày tiệc khoản đãi. Chỉ thấy toàn là các loại cây trái qua qủa được bưng lên trong các mâm chậu thật đẹp, mùi hương của trái cây ngào ngạt khắp phòng.

  
      Trong buổi tiệc, Ma Cô nói với Vương Viễn rằng :" Kể từ ngày đắc đạo và nhận lấy thiên mệnh tuần tra đến nay, cũng đã ba lần thấy Đông hải biến thành ruộng dâu. Mới vừa đây, khi tuần tra đảo Bồng Lai, thấy nước biển ở đây đã cạn đi một nửa, chắc biển lại muốn biến thành đất liền nữa rồi !".
        Vương Phương Bình Thở dài mà rằng :" Đúng vậy, các thánh nhân đều bảo, nước biển đang cạn dần, chắc không bao lâu nữa nơi ấy sẽ là nơi đầy rẫy cả bụi hồng trần !". Tiệc tan trong một ngày, nhưng ở thế gian đã là cả ngàn năm rồi, mới hay, không gian khác nhau thì thời gian cũng sẽ khác nhau. Trong mắt thần tiên chỉ một thoáng, nhưng ở thế gian thì bãi bể đã hoá nương dâu rồi .

Ma Cô Tiên và Vương Viễn

        
Điển tích TANG ĐIỀN THƯƠNG HẢI thường được nói gọn lại thành TANG THƯƠNG như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu :
Phong trần đến cả sơn khê,
TANG THƯƠNG đến cả hoa kia cỏ này.


        Hay lấy chữ đầu và chữ cuối mà nói thành TANG HẢI, như trong Truyện Từ Thức gặp Tiên :
Nguồn cơn biết ngỏ ai hay, 
 Giận cơ TANG HẢI trách ngày thiếu niên.

        Lắm lúc lại chỉ sử dụng một vế THƯƠNG HẢI mà thôi, như trong truyện Lưu Nữ Tướng :
Kìa đâu ngàn Sở bãi Tần,
Tưởng cơ THƯƠNG HẢI xoay vần kíp sao !

 

        Thương Hải Tang Điền còn được dịch thẳng ra tiếng Nôm là BÃI BỂ NƯƠNG DÂU, cũng trong Cung Oán của Nguyễn Gia Thiều :
    Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
    Ai bày trò BÃI BỂ NƯƠNG DÂU ?

        Hay như trong bài Ai Tư Vãn của Công Chúa Ngọc Hân khóc vua Quang Trung :
 
Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy.
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu !
Phút giây BÃI BIỂN NƯƠNG DÂU,
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao ?

        Còn trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du đã mở đầu bằng những câu:
 
Trăm năm trong cỏi người ta,
Chữ TÀI chữ MỆNH khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc BỂ DÂU,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

        Và cụ đã đão ngược lại thành DÂU BỂ, khi cho Thúy Vân hỏi Kiều một cách thật vô tư đến ... đáng trách là :
Cơ trời DÂU BỂ đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình.
Cớ sao ngồi nhẫn tàn canh,
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây ?!

   
     Trong văn chương cận đại đã ít sử dụng điển tích văn học, nhưng khi đọc đến bài thơ Sông Lấp của ông tú Vị Xuyên Trần Tế Xương, nghe như có cái gì đó nghèn nghẹn cho sự TANG THƯƠNG BIẾN ĐỔI khi dòng sông Vị Hoàng của quê ông bị lấp, ông đã làm bài thơ với đầy vẻ ưu thời mẫn thế như sau :
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò !
Trần Tế Xương.
Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào: