21 tháng 3 2019

NHÀ

<C.022><Điển tích văn học> 
Đề tài: NHÀ … 
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC 


        NHÀ nói theo Chữ Nho ... Dễ Học là GIA 家. Gia là chữ Hôi Ý theo diễn tiến của chữ viết như sau :

Giáp Cốt Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư

        Ta thấy Giáp Cốt Văn là hình tượng của cái Mái Nhà, bên dưới có một con heo đứng ngóc mỏ lên trên, có chân và đuôi bên dưới, đến Đại Triện thì các nét được đơn giản hóa hơn và đến Tiểu Triện thì các nét lại được kéo thẳng ra cho thành chữ viết. Cuối cùng là chữ Lệ đã có hình dáng như chữ Khải mà hiện nay đang sử dụng GIA 家 : Phía trên là bộ Miên 宀 là hình tượng của cái Mái Nhà; bên dưới là bộ Thỉ 豕 là con Heo, với Hội Ý là : Ở dưới một cái mái che mà có nuôi được một con heo trong cái xã hội du mục thì đây đã là một cái NHÀ, một mái ấm Gia Đình rồi đó.

        Nên GIA 家 là Nhà, mà nhà thì có Sân, sân trong nhà gọi là Đình; nên ta có từ GIA ĐÌNH 家庭. Nhà cũng có Phòng, phòng trong nhà gọi là Thất; nên ta lại có từ GIA THẤT 家室. Cái Phòng lớn nhất để thờ ông bà, để cha mẹ ngồi cho con cái vấn an, để họp gia đình và tiếp khách, thì gọi là Đường; nên ta lại có từ GIA ĐƯỜNG 家堂. Và nhà nào cũng có cửa ra vào, nên ta còn có từ kép là Nhà Cửa, chữ Nho là GIA MÔN 家門. Tất cả những từ và ngữ trên đây đều có thể dùng để chỉ hoặc thay thế cho cái nhà. Ví dụ như câu đối Tết truyền thống của dân Nam Bộ là :
一室太和真富貴, Nhất THẤT thái hòa chơn phú qúy,
滿門春色是榮華。 Mãn MÔN xuân sắc thị vinh hoa.
        Có nghĩa :
Một NHÀ hòa thuận mới là phú qúy thật sự,
Đầy CỬA (đầy nhà) một màu xuân mới thật là Vinh hoa.

        Chữ THẤT 室 là Phòng, chữ MÔN 門 là Cửa trên đây,đều được dùng để chỉ Cái Nhà, chỉ cả Gia Đình.
        GIA 家 là Nhà, nhưng trong văn chương ta thấy có rất nhiều chữ NHÀ không dùng để chỉ Cái Nhà, mà dùng để chỉ : Một Người nào đó; Một Nơi nào đó hay một Nghề Nghiệp nào đó ... Như trong Truyện Kiều, lúc Thúc Sinh muốn chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh để cưới về làm vợ, thì Thúy Kiều đã lo ngại rằng :
    Ở trên con có NHÀ THÔNG.
    Lượng trên trông xuống biết lòng có thương !?

        NHÀ THÔNG là từ Nôm của từ THUNG ĐƯỜNG 椿堂 ( Còn được đọc là XUÂN ĐƯỜNG ) dùng để chỉ ngưới cha trong gia đình. XUÂN 椿 : Theo sách Trang Tử, chương Tiêu Dao Du, thì XUÂN 椿 là loại cây cao bóng cả, tàng lá sum xuê, có tám trăm năm là mùa xuân, tám trăm năm là mùa thu, nên được dùng để ví với người cha là cột trụ chống đỡ và che chở cho gia đình. Khi cô Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư, thì chàng mới...
    Rạng ra trình lại XUÂN ĐƯỜNG,
    Thúc Ông cũng vội khuyên chàng quy gia.

Cây Xuân

        Khi nằm mơ thấy Đạm Tiên báo mộng cho biết về kiếp số đoạn trường của mình, thì cô Kiều đã buồn bã than thở đến đổi :
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
NHÀ HUYÊN chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì ?

        NHÀ HUYÊN là từ Nôm của từ HUYÊN ĐƯỜNG 萱堂. HUYÊN 萱 là một loài thảo mộc được trồng trong nhà như cây Trường sinh, lá thon dài, nở hoa màu vàng và cho hương thơm dìu dịu, ăn được, ta thường gọi là Hoa KIM CHÂM, dùng để chỉ sự dịu dàng của người mẹ, nên NHÀ HUYÊN hay HUYÊN ĐƯỜNG là MẸ. Ta có từ gọi chung CHA MẸ là XUÂN HUYÊN 椿萱. Khi hay tin Kiều đã bán mình chuộc cha, Kim Trọng đã vật vã khóc than đến nỗi " Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao ", khiến cho :
 
XUÂN HUYÊN lo sợ xiết bao,
Hóa ra khi đến thế nào mà hay !  

 

Hoa và Cỏ Huyên

        Ta còn gặp lại từ NHÀ HUYÊN trong Kiều một lần nữa khi Thúy Kiều sắp lên đường theo Mã Giám Sinh đi Lâm Chuy :
Bề ngoài chủ khách dập dìu,
Một NHÀ HUYÊN với một Kiều ở trong.

        Sẵn nói luôn về cách xưng hô cha mẹ mình và cha mẹ người khác, như thế nào cho lịch sự và đúng phép tắc.
        * Xưng hô cha mẹ mình với người khác là : 
    
 - Gia phụ 家父, gia nghiêm 家嚴. (nghĩa như Cha Tôi, Ba tao).
 - Gia mẫu 家母, gia từ 家慈, (nghĩa như Mẹ Tôi, Má tao). 
        * Xưng hô cha mẹ của người khác là : 
 - Lệnh tôn 令尊, lệnh nghiêm 令嚴, lệnh nghiêm đường 令嚴堂  (nghĩa như : Cha của anh của chị ... là Ba mầy)
 - Lệnh từ 令慈, lệnh từ đường 令慈堂, lệnh từ mẫu 令慈母. (nghĩa như : Mẹ của anh của chị ... là Má Mầy).

        Cách xưng hô trên đây hiện nay không còn sử dụng trong văn nói, nhưng vẫn còn sử dụng trong văn viết, trên văn bản, giấy tờ ... cho lịch sự. Riêng các từ Huyên Đường, Xuân Đường, Nhà Huyên, Nhà Thông ... thì chỉ để nghiên cứu và tìm hiểu về văn học cổ mà thôi. 

        Trở lại với từ NHÀ ... Khi gia đình Kiều gặp nạn, Kiều ngỏ ý với người may mối mình muốn bán mình chuộc tội cho cha. Cụ Nguyễn Du đã viết :
Sự lòng ngõ với BĂNG NHÂN,
 Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.

        Và thầy trò Mã Giám Sinh đã kéo đến một cách ồn ào :
 Trước thầy sau tớ xôn xao,
 NHÀ BĂNG đưa mối rước vào lầu trang.

        NHÀ BĂNG là BĂNG NHÂN 冰人 là Người May Mối. Tại sao gọi người may mối là BĂNG NHÂN ? À, thì ra ...


        
        Theo Kinh Thi 詩經, chương Bắc Phong 邶風, có câu :
    雝雝鳴雁, Ung ung minh nhạn,
    旭日始旦。 Húc nhật thủy đán.
    士如歸妻, Sĩ như quy thê,
    迨冰未泮。 Đãi băng vị phán.
        Có nghĩa :
    Nhạn kêu oang oác trời thu,
    Tảng sáng mây mù, mặt nhựt mọc ra.
    Nếu chàng có muốn cưới ta,
    Đừng đợi băng rả mới qua rước người !

        Theo quan niệm xưa, cưới vợ phải trước tiết Trọng Xuân tháng 2, vì đây là khoảng thời gian âm dương giao tiếp, âm tiêu dương trưởng, có nghĩa khí âm lạnh lẽo lui dần và khí dương ấm áp bắt đầu nảy sinh. Vạn vật qua mùa đông cũng bắt đầu sinh sôi nẩy nở, cũng thích hợp cho con người cưới vợ sanh con; Vì qua khoảng thời gian nầy băng sẽ tan hết, và công việc đồng áng sẽ bắt đầu vào vụ mùa, nên không còn thích hợp để cưới vợ nữa. Theo như truyền thuyết sau đây :
        Vào đời Tấn, có một quan viên Hiếu Liêm tên là Lệnh Hồ Sách 令狐策. Một đêm, ông ta nằm mộng thấy mình đang đứng ở trên băng cùng nói chuyện với người ở dưới băng. Hồ Sách đem chuyện nầy hỏi Tác Đảm 索紞, là một người có tài chuyên đoán mộng. Đảm đáp rằng :" Trên băng là dương, dưới băng là âm. Đó là việc âm dương. Đứng ở trên băng nói chuyện với người đứng ở dưới băng, đó là ví dương nói với âm, tức là làm mối cho trai gái lấy nhau. Ông sẽ là người mai mối cho trai gái lấy nhau trong mùa nầy trước khi băng tan đó. Cố gắng mà làm cho tốt. Sau đó qủa nhiên như lời của Tác Đảm. Lệnh Hồ Sở đã làm "Băng Nhân" cho mấy cặp thành hôn trước lúc băng tan.

        Cho nên sau nầy gọi người mai mối là BĂNG NHÂN, Nôm na thì gọi là NHÀ BĂNG, chớ không phải NHÀ BANK là Ngân Hàng của ta ngày nay đâu. Ta còn gặp lại từ Băng Nhân khi Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh:
    Ngỏ lời nói với BĂNG NHÂN,
    Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn !

        Trong truyện Nôm Phạm Tải Ngọc Hoa của ta, nói về thân thế của Phạm Tải có câu :
    Kiếm ăn đắp đổi qua lần,
    Nương mình cửa Khổng, tựa thân NHÀ TRÌNH.

        NHÀ TRÌNH hay CỬA TRÌNH, SÂN TRÌNH gì đều chỉ nhà của Trình Di 程頤, tự là Y Xuyên 伊川. Theo Chu Tử Ngữ Lục, Trình Di là một danh nho đời Tống, học trò đến xin học rất đông. Khi Du Tạc 遊酢 và Dương Thời 楊時 tìm đến ra mắt để xin vào học, thấy thầy đang nhắm mắt dưỡng thần, hai người bèn đứng im không dám động đậy. Đến khi Trình Di mở mắt ra nhìn thấy thì tuyết đã đổ xuống phủ chỗ đứng của hai người cao đến hơn một thước (xưa khoảng hơn 2dm).


        Vì tích trên mà ta còn có thành ngữ TRÌNH MÔN LẬP TUYẾT 程門立雪 ( là Đứng trong tuyết trước cửa thầy Trình ) để chỉ : Sự quyết tâm cầu học và lòng kính trọng của học trò đối với thầy.

        Trong Bích Câu Kỳ Ngộ nói về Tú Uyên cũng có câu :
    Thông minh sẵn có tư trời,
    Còn khi đồng ấu mãi vui CỬA TRÌNH.

        Ta hay nghe câu "Cửa Khổng Sân Trình", là Cửa của Khổng Tử và Sân của Trinh Di, dùng để chỉ nơi học tập theo đạo Nho ngày xưa, tương đương với từ Nhà Trường của ta hiện nay.

        Ngoài NHÀ TRÌNH để chỉ trường học ra, ta còn thấy từ NHÀ HUỲNH, do từ HUỲNH VŨ 黌宇. Theo sách Hậu Hán Thư, vua Hán Thuận Đế cho xây những tòa nhà lớn để làm nơi ăn học cho các sĩ tử, gọi là Huỳnh Vũ. Như trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :
    Gia quan mới dạo NHÀ HUỲNH,
    Thư nhà hầu hạ huyên đình bấy lâu
.
        Ngoài ra, ta còn gặp từ NHÀ LAN trong Truyện Kiều. Khi "Trên hai đường với cùng là hai em, Tưng bừng sắm sửa áo xiêm" để mừng thọ ngoại gia. Ở nhà có một mình, nên Kiều thừa lúc :
    NHÀ LAN thanh vắng một mình,
    Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.

        NHÀ LAN là LAN THẤT 蘭室, là Nhà có mùi thơm như hoa lan, dùng để chỉ những gia đình có đạo đức, như lời của Lưu Tướng Công nói trong Hoa Tiên Ký:
    Dứt lời Lưu mới thưa rằng,
    Từ vào LAN THẤT xem bằng Long Môn.

芝蘭之室

        LAN THẤT có xuất xứ từ câu nói của Đức Khổng Phu Tử như sau. 

        Tử Viết: Dữ thiện nhân cư, như nhập CHI LAN CHI THẤT, cửu nhi bất văn kỳ hương, tức dữ chi hóa hỉ. Dữ bất thiện nhân cư, như nhập bào ngư chi tứ, cửu nhi bất văn kỳ xú, diệc dữ chi hóa hỉ. 孔子曰:與善人居,如入芝蘭之室,久而不聞其香,即與之化矣。與不善人居,如入鮑魚之肆,久而不聞其臭,亦與之化矣。
        Có nghĩa: 
        Khổng Tử nói rằng : " Ở chung với những người thiện, như vào trong nhà có hoa chi lan, lâu dần không thấy mùi thơm, tức là ta đã hòa vào mùi thơm đó rồi. Còn ở chung với người không thiện, thì như đi vào tiệm bán cá, lâu dần cũng không thấy được mùi tanh, vì ta cũng đã hòa vào cái mùi tanh đó rồi ". Ý của câu nầy giống như là câu : " Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng " của ta vậy !

        Nên NHÀ LAN là nhà có đạo đức, lương thiện, đàng hoàng, hay trên thuận dưới hòa, vợ chồng hòa hợp như Tú Uyên và Giáng Kiều trong Bích Câu Kỳ Ngộ:
    NHÀ LAN sum họp ban mai,
    Đã trong tần tảo, lại ngoài huyền ca.

        Cái nhà cuối cùng của bài viết nầy muốn đề cập là NHÀ VÀNG, từ Hán Việt là KIM ỐC 金屋, là nhà được xây bằng vàng cho người đẹp ở. Như tích sau đây: 
        Theo sách Hán Vũ Cố Sự : Lúc Hán Vũ Đế Lưu Triệt còn làm thái tử, bà trưởng công chúa muốn gả con gái cho, mới ướm hỏi : " Lấy được A Kiều thì có thích không ?". Triệt đáp : " Nếu lấy được A Kiều, thì sẽ đúc nhà vàng cho nàng ở ". Qủa nhiên, sau nầy khi lấy A Kiều và đã lên làm vua, Hán Vũ Đế bèn xây nhà vàng cho Hoàng Hậu A Kiều ở. Trong Truyện Tây Sương cũng đánh giá cao Thôi Oanh Oanh bằng hai câu :
    Trộm nghe nàng kẻ hồng nhan,
    Dọn phòng KIM ỐC, vây màn tố sa.

        Hay như trong Truyện Kiều, mặc dù ghen tức với Thúy Kiều, nhưng Hoạn Thư vẫn tán thưởng trước tài năng và sắc đẹp của nàng:
    Ví chăng có số giàu sang,
    Giá nầy dẫu đúc NHÀ VÀNG cũng nên !


        Từ đầu bài viết đến giờ, ta đề cập đến bảy cái NHÀ :
- Nhà Thông chỉ người cha.
- Nhà Huyên chỉ người mẹ.
- Nhà Băng chỉ người mai mối.
- Nhà Trình chỉ nhà của Trình Di, chỉ trường dạy về Nho học.
- Nhà Huỳnh chỉ Trường học ngày xưa.
- Nhà Lan chỉ các gia đình có đạo đức.
- Nhà Vàng chỉ nhà làm bằng vàng cho người đẹp ở.

        Với truyền thống sử dụng từ NHÀ trong văn chương văn học, cho đến ngày hôm nay từ NHÀ vẫn còn đắc dụng trong ngôn ngữ nói và viết của tiếng Việt Nam ta ở tất cả các mặt, như :
* Chỉ chính quyền là : Nhà nước, Nhà quan ...
* Chỉ xã hội là : Nhà từ thiện, Nhà hảo tâm ...
* Chỉ nghề nghiệp là : Nhà buôn, Nhà thầu ...
* Chỉ địa điểm là : Nhà thương, Nhà trường ...
* Chỉ chuyên môn là : Nhà thiết kế, Nhà tạo mẫu ...
* Chỉ tình trạng gia đình là : Nhà Giàu có, Nhà Khá giả ...
* Chỉ Kinh doanh là : Nhà hàng, Nhà Bank...

        Thường thì từ NHÀ luôn chỉ một phương diện nào đó vượt trội hơn người, chỉ có ... Nhà Văn, Nhà Giáo, Nhà Báo là ... Nhà Nghèo mà thôi ! 

Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào: