27 tháng 11 2015

X55. Uống rượu với bóng 2

<D.117~Rượu Trà> 

Chén cạn phơi bày hương ảo giác

Đêm tàn níu kéo mảnh buồn rơi



UỐNG RƯỢU VỚI BÓNG

Thoạt đến rồi đi khách chẳng mời
Phiên bàn tiệc nhẹ vẫn không vơi
Vầng trăng súc tích khơi tâm sự
Chiếc bóng trầm tư nhắc vận đời
Chén cạn phơi bày hương ảo giác
Đêm tàn níu kéo mảnh buồn rơi
Hồn đau ủ ấp từ xa thẳm
Đối ẩm tìm say cuộc nửa vời!

Nguyễn Đắc Thắng
151126

---------------------
@ Các bài họa khác

1. ĐỘC ẨM
-nđt-

Tình nhân bỏ mặc bé đâu mời ??
Độc ẩm quên sầu rũ hận vơi
Vẫn đấy lời ngon tràn nửa miệng
Còn kia tiếng ngọt dỗ nguyên đời
Trăng chìm bến hẹn mây hờn rã
Cá lặn miền yêu ngõ tủi rời
Để rõ ân hờ thay đổi mặt
Vùi sâu lấp chặt nghĩa xa vời

Thuận Đăng
26/11/2015

---------------------

2. TRẦM TƯ
-nđt+bvđâ-

Trầm tư chén tửu ,mỗi riêng mời...
Giọt đắng đong tràn, nỗi khổ vơi.
Vẫn biết tình say , hồn tỏ lợi.
Thường khi mộng vỡ cảnh xa vời.
Thay tìm ngõ khác, soi nguồn khởi.
Gạt bỏ cung trầm , vững bước khơi.
Kỷ niệm buồn đau đừng nghĩ tới...!.
Người thương lại có...để xây đời !.

Minh Hiếu (FB Vui Hieu)
26/11/2015.

------------------

3. KHÁCH TRĂNG
-nđt-
Chỉ mỗi vầng trăng khách lựa mời
Ly thù chén tạc chẳng nhường vơi
Vần gieo xướng họa êm đềm cảnh
Bóng tỏa hàn huyên lãng mạn đời
Thỏa nghĩa Kim bằng đêm lại ghé
Mừng duyên Trúc mã buổi đâu rời
Không nề cánh trở trao tình đượm
Áng mảnh thềm đơn vẫn tuyệt vời

Hong Mai
26/11/15

--------------------------------------

4. XA VỜI

Thuyền neo bến lỡ đón trăng mời
Ghé lại đôi niềm chén rượu vơi
Bóng nguyệt giăng vàng treo nửa mảnh
Màn Sương rụng trắng rớt bên đời
Câu yêu để lại hương tình rũ
Nổi nhớ quên rồi sắc mộng rơi
Vẫn biết gần nhau là chẳng thể
Ái ân lửa đượm cũng xa vời.

Ai Thuy Tran
26/11/2015

--------------------------------------

5. MỘT MÌNH

Người đến rồi đi chẳng ai mời
Trên bàn tiệc dọn sẳng đầy vơi
Do đâu vắng vẻ không ai tới
Cũng tại người hay trách sự đời
Chiếc bóng cô đơn đành thui thủi
Đêm về cố níu mảnh trăng rơi
Giờ đây tỉnh mộng lòng đau xót
Nay chẳng còn đâu đã xa vời

Hong Thai

--------------------------------------

6. TRẢ CHO ĐỜI
-nđt-
Tình dang dở khiến phận đau vời
Dẫu có thương hoài lệ chẳng vơi
Sóng dạt thuyền mơ về bãi biển
Dòng sang bến mộng khỏi chân trời
Lan hờn mỏi ngóng duyên đà vỡ
Liễu tủi trông mòn ái lộng chơi
Đã biết niềm yêu dần rụng lả
Thì xin trả tiếng lại cho đời.

Hường Xưa

--------------------------------------

7. TẢN MẠN RƯỢU
-nđt-

Bày ra một chén gửi môi mời
Chuốc cạn đôi lần hỏi đã vơi
Bể cấy bờ nghiêng chèn cõi phận
Hồ giăng cọc đổ chắn thân đời
Duyên trời dệt thiếu đành buông thả
Nợ đất đan thừa cũng bỏ rơi
Lão nguyệt se nhầm nên chỉ rối
Nên đành độc tửu kết tình chơi

Bich Sudang - BSD
26/11/2015

--------------------------------------

@ Bài xướng nương vận của Thuận Đăng

8. KHÁT VỌNG
-nđt-
Mộng lỡ buồn theo ngả sóng vời
Con thuyền lạc bến những chiều vơi
Trăng ngà đã dạt nơi đầu biển
Nước bạc dần trôi ngã khoảng trời
Gió khỏa ru hời tâm rụng vỡ
Mây đùa võng thả dạ mòn rơi
Bao giờ mới thỏa tim sầu đợi
Trả nghĩa cùng nhau khát vọng đời

Thuận Đăng

--------------------------------------

9. TRĂNG BUỒN

Xứ ấy giờ đây chén rượu mời
Cho mình giọt đắng nổi chơi vơi
Tình xưa bỏ hết tan miền nghĩa
Mộng cũ còn đâu xót cảnh đời
Tím ruột bao ngày mây hờn dỡi
Bầm gan mấy buổi gió chao rời
Người đi nở bỏ không còn nhớ
Để ánh trăng buồn giữa biển khơi.

MAI MAI

--------------------------------------

10. LẺ BÓNG

Vì yêu nguyện uống chả ai mời
Giọt đắng nhân tình chuốc chẳng vơi
Bữa trước còn trao lời ước hẹn
Giờ đây đã gạt tiếng duyên ngời
Âm thầm nuốt hận vào tâm khảm
Lặng lẽ gom sầu đổ biển khơi
Biết khổ mà sao còn vọng tưởng
Buồn vương trọn kiếp dõi theo đời.

Ngọc Cúc

--------------------------------------

11. CẠN TRĂNG

Mười lăm trăng sáng nguyệt lay mời
Hãy nói gì đi để cạn vơi
Gọi gió gọi mây về hỉ sự
Kêu bè kêu bạn đến yêu đời
Cõi trần mặc kệ mê hay giác
Một cuộc tỉnh say thoáng đã rơi
Có nghĩa gì đâu trời thẳm thẳm
Đêm nay ta cứ vẽ cho vời .

Đặng Thái Quy Đặng

--------------------------------------

12. KHÁCH KHÔNG MỜI

Vừa bưng dọn bữa có đâu mời
Bởi đói cồn cào bụng đã vơi
Nhấp chén thằng kia đâu kém ngụm
Và cơm kẻ đấy cũng hơn đời
Khi chân loạng choang làm mình ngã
Lúc nó quềnh quàng hất bát rơi
Cưỡi gió hằng nga cười xếch miệng
Chùm chăn cái bóng chạy xa vời

Việt Nguyễn

-------------------

13. ĐỘC ẨM

Ai người thấu hiểu để mà mời
Độc ẩm ta cùng bóng đẩy vơi
Sự nghiệp bao phen đua chẳng tới
Tương lai mấy thuở chạy theo thời
Mời nhau chúc mãi ta cùng uống
Thế thái nhân tình khéo lại rơi
Nhắm mắt quên đi đời hắt hủi
Tràn ly kiếm giấc mộng xa vời

Cao Quang Sau

------------------- 

14. QUÁN VẮNG

Chiều nay mấy bạn đến chơi mời
Gặp mặt hàn huyên chuyện khổ vơi
Những bận tham công hoài chẳng tới
Nhiều hôm tiếc việc mải không lời
Nay thì đã khác khi cùng bởi
Bữa bỏ nào chung lúc bước lơi
Hỷ phát tâm an lòng phấn khởi
Vui buồn vạn phúc đạt ngàn khơi

Hương Diệu

-------------------

15. ĐƠN CÔI

Cứ thế mà đi chẳng gọi mời
Đau lòng biết mấy lệ đầy vơi
Ngày ra trốn đó ngồi tâm sự
Tối lại tìm trăng ngẫm phận đời.
Đắng miệng còn chi là vị giác
Môi tràn mật ngọt vẽ lời rơi
Giờ câu nghĩa ái rời xa thẳm
Để phút ân kia cũng nửa vời.

Oanh Đặng

-------------------

16. TỈNH MỘNG
-nđt-
Mình đơn tiệc quán cũng vui mời
Khách vãn trên bàn rượu chẳng vơi
Giót đẫy vài ly thương chủ sự
Đầy vơi mấy vại nẫu cung đời
Ơi người hãy tạm quên ảo giác
Hỡi bạn thôi đừng để buồn rơi
Kỷ niệm chôn vùi nơi cõi thẳm
Giờ say tỉnh mộng luống xa vời !

Tuấn Tôn

--------------------------------------

17. TAN VỠ
-nđt-
Một chén nồng cay kẻ vẫn mời
Duyên lành mấy độ cũng dần vơi
Nâng đàn khỏa nhạc âm thầm tới
Lỡ nhịp tàn canh khắc khoải vời
Có lẽ ân tình nay chẳng đợi
Do là hạnh phúc mãi còn rơi
Đường xưa quạnh vắng lòng tan vỡ
Chỉ có hồn thơ ngập cõi đời

H N T - Hằng Nga Trần

--------------------------------------

18. CHUNG VUI

Quỳnh hoa nở trắng bạn thân mời
Có ấm trà này nghĩa chẳng vơi
Quý mến cùng nhau bàn thế sự
Yêu thương nói chuyện ngẫm về đời
Trăng soi lóng lánh làm vui sướng
Gió thổi êm đềm khiến nhọc rơi
Chắp bút thơ này ta xướng hoạ
Quên đi vất vả bỏ xa vời!

LT - Long Tran

---------------------

19. KHÁCH MỜI
-nđt+toánthi-
Chè tam, rượu tứ bởi duyên mời
Nhất tửu quên sầu thẹn sẽ vơi..
Lục bát vần thơ tình thỏa mãn
Trường thiên khúc nhạc nghĩa yêu đời
Cung đàn gợi.. tỷ tê buồn rớt
Quãng nhị ngân.. thầm thán tủi rơi
Bạn hữu trong đời tri kỷ bách..
Niềm vui hớn hở thập phương vời.

Dũng Nguyễn Đức

-------------------------

20. RƯỢU MỜI
-nđt+1vận-

Thuận Thẳng Hằng Ai rũ tửu mời
Vui cùng Bích Đặng bỏ sầu vơi
Hồng Mai Thái Việt đem bầu hởi
Ngọc Cúc Hường Ngân ngả hũ rời
Nguyễn Đức bưng bàn đâu bỏ vợi
Long Trần dọn đĩa chẳng làm rơi
Chờ Hương Diệu đến Qui về ngỡi
Để Tuấn Tôn chào khật khưỡng chơi

Thuận Đăng
27/11/2015

25 tháng 11 2015

X54. Uống rượu với bóng

<D.116~Rượu Trà>

XƯỚNG HỌA VƯỜN THƠ THẨN 



UỐNG RƯỢU VỚI BÓNG

Bài 1. - Phương Hà

Thù tạc tròn đêm với bóng tôi
Đèn khuya hiu hắt chỗ chung ngồi
Này ly thơm thảo mừng tương ngộ
Nọ chén khê nồng khóc rụng rơi
Cười cợt cho vơi niềm khổ lụy
Ân cần để vẹn cuộc vui chơi
Canh tàn nguyệt lặn bình nghiêng đổ
Giọt rượu hay sương thấm ướt đùi?

Bài 2. - Cao Linh Tử

Giọt rượu hay sương thấm ướt đùi
Gật gù lạ nhỉ chửa mềm môi
Liêu Trai vị đắng ngàn năm trước
Kê giấc đời sang chút xíu thôi
Rót tiếp sao trời trăng lặn mất
Mời thêm mặt chiếu bóng tan rồi
Một chai một cốc trăm câu chuyện
Thoạt đến thoạt đi khách chẳng mời.

Bài 3. - Nguyễn Đắc Thắng

Thoạt đến rồi đi khách chẳng mời
Phiên bàn tiệc nhẹ vẫn không vơi
Vầng trăng súc tích khơi tâm sự
Chiếc bóng trầm tư nhắc vận đời
Chén cạn phơi bày hương ảo giác
Đêm tàn níu kéo mảnh buồn rơi
Hồn đau ủ ấp từ xa thẳm
Đối ẩm tìm say cuộc nửa vời!

Bài 4. - Thái Huy

Đối ẩm tìm say cuộc nửa vời
Đời thường xem thể một trò chơi
Người mơ chắc chắn liền tô chuốt
Tớ xỉn hẳn nhiên tự vẽ vời
Áo gấm về làng không cảm thẹn
Tay ngà chuốc rượu chẳng lo rơi
Ngảng nghiêng trời đất ồ thây mặc
Còn nợ ai đâu sợ trả lời.

Bài 5. - Song Quang

Còn nợ ai đâu sợ trả lời!
Tình xa phải trả chớ đùa chơi
Bây chừ độc tửu không kêu réo
Mai mốt cô liêu chẳng gọi mời
Chén tạc chén thù cay tất dạ
Ly đầy ly cạn đắng làn môi
Khi tàn cuộc rượu đèn thay bóng
Gởi mảnh hồn say tận cuối trời.

------------------------------------------
& Bài hoạ tất cả của Quên Đi

TỰ TÌNH

Một bầu một chén với một tôi
Dưới ánh trăng khuya chẳng ghế ngồi
Mong đợi lâu rồi người xưa vắng
Chỉ nghe từng khắc giọt sương rơi
Thôi thì tự rót rồi bưng cạn
Chả lẽ mời trăng xuống uống chơi
Thuở trước Tiền nhân từng độc ẩm
Còn mình chờ đến mỏi hai đùi.

Còn mình chờ đến mỏi hai đùi
Mặc kệ bây giờ cứ nếm môi
Rượu bạn rượu bè ai uống cạn
Chén qua chén bậu có mình thôi
Trăng tàn dần ngã đoài xa thẳm
Hai đứa chia ly chuyện đã rồi
Để những đêm về trong vắng lặng
Một mình một bóng lấy ai mời.

Một mình một bóng lấy ai mời
Thử hỏi sao sầu mãi chẳng vơi
Bởi nước xuôi đông là vạn thuở
Nên qua nhớ bậu lẽ muôn đời
Uống đi cho mảnh tình thêm đắm
Để thấy nơi lòng lệ vẫn rơi
Đêm đã dần tan còn thổn thức
Luyến lưu chi dĩ vãng xa vời.

Luyến lưu chi dĩ vãng xa vời
Nhưng cuộc tình nào phải cuộc chơi
Có rức có ray đành cố chịu
Từng thương từng nhớ mới theo vời
Em hoa hàm tiêu như khiêu gợi
Anh bướm đa tình đâu để rơi
Những chuyện yêu đương thường khó trọn
Đôi ta ly cách chẳng nên lời.

Đôi ta ly cách chẳng nên lời.
Thế sự xoay dần phá ghẹo chơi
Áo thắm Bậu mang sang bến khác
Lệ cay Qua xót đọc thư mời
Đêm về thao thức nhìn trăng lặn
Rượu uống say mèm tái cả môi
Tình hận men nồng đâu thể xoá
Nên giờ còn nhớ kẻ chân trời.

Quên Đi

---------------------------------------
Các bài họa với bài 1

UỐNG RƯỢU VỚI BÓNG

Ai nào nữa nhỉ chỉ riêng tôi
Chiếu trải gốc cây ngất ngưởng ngồi
Ly cạn với trăng nhìn lá đổ
Cốc san cùng gío quyện sương rơi
Trong nghe rạo rực em đang đến
Ngoài cảm lâng lâng bạn ghé chơi
Cụng tiếp qua đêm tràn thế sự
Tỉnh ra mới rõ vỗ thâm đùi.

Thái Huy
11-21-15
---------------------------------

UỐNG RƯỢU VỚI BÓNG

Đất vách mình ên thấy bóng tôi
Đêm khuya thao thức kiếm nơi ngồi
Mang ly rót rượu mời mi cạn
Đem chén châm đầy chớ để vơi
Ngất ngưỡng bên đời cho chếnh choáng
Phong lưu cỏi thế dễ đâu chơi!
Muốn nhờ men ngấm quên cay đắng
Nước mắt hình như ướt đẫm đùi ??

SONG QUANG

---------------------------------

MEN SAY ĐƠ BUON

Bao năm thui thủi một mình tôi
Buồn quá không ai đối ẩm ngồi
"Chén chú" cùng anh duyên hội ngộ
"Ly em" với bóng lệ tuôn rơi
Mời nhau nhấm chút cay đầu lưỡi
Đón tiếp đưa hơi bỏ cuộc chơi
Bóng xế chiều rơi chai rượu vỡ
Men nồng say khướt đổ trên đùi!

Mai Xuân Thanh
Ngày 21 tháng 11 năm 2015

---------------------------------

UỐNG RƯỢU MÌNH ÊN

Ngồi buồn đối bóng nhậu cùng...tôi
Uống rượu mình ên mặc đứng ngồi
Không bạn cụng ly cho dạ hả
Một mình tự ẩm mặc chiều rơi
Đơn thân ngàn chén còn chê it
Độc mã vài ba xị cũng chơi
Gật gưỡng gật gà say suốt sáng
Cái gì... mà... ướt hết hai đùi ?!

Cái gì... mà... ướt hết hai đùi ?!
Vỡ lẽ thì ra ... chính ..."Nó" thôi !
Ngọc dịch nhưỡng thành diên hảo khách
Hoàng kim tán tận để mua vui !
Đỗ Khang ủ rượu bằng cơm cặn
Di Địch chế men bởi trái ôi
Tửu tứ trà tam xưa vẫn thế
Mình ta uống rượu... ướt hai đùi !!!

Đỗ Chiêu Đức

---------------------
CHÚ THÍCH :
- NGỌC DỊCH : là Dung dịch trong như Ngọc, chỉ Rượu. NHƯỠNG là Ủ (rượu). DIÊN là Đãi. Câu nầy có nghĩa : Rượu quý ủ thành để đãi khách quý !
- HOÀNG KIM TÁN TẬN là Xài hết vàng ròng, là xài hết tiền (để mua rượu đãi bạn...để mua vui, mà không có ai uống với mình hết ! Cho nên phải uống mình ên.)
- ĐỖ KHANG : Người đời Huỳnh Đế (2717-2599 trước Công Nguyên) ông dùng cơm ăn dư ủ ở trong động của vườn dâu, cơm lên men trong động và bốc ra mùi thơm... Đó là cách ủ rượu sơ khai nhất và ông được mọi người tôn xưng là Ông TỔ của nghề nấu rượu.
- DI ĐỊCH : Theo Chiến Quốc Sách ghi : Bà Di Địch ủ trái cây cho lên men thành rượu, dâng cho vua Hạ Vũ (2205-2198 trước Công Nguyên) Vũ uống vào, say cả ngày, nên xa lánh bà Di Địch, và ra lệnh cấm rượu với lý do : Hậu thế ắt có những vì vua sẽ mất nước vì rượu.

---------------------------------
& Bài trên FB Cao Linh Tử

UỐNG RƯỢU VỚI BÓNG

Đêm đêm buồn uống nó và tôi
Hết ghế chung lưng một chỗ ngồi
Nâng chén tương phùng cùng dốc cạn
Đỡ ly tao ngộ cũng nghiêng rơi
Tôi cười lặng lẽ rời bàn tiệc
Nó khóc âm thầm bỏ cuộc chơi
Dầu cạn bấc khô mày biến mất
Ừ say tao khoái cứ rung đùi .

Peter Lý

-----------------------------------------------------------
& Một bài họa khác trên FB Nguyễn Đắc Thắng tính số 4.2

Bài 4.2 : Hiền Mai

Đối ẩm tìm say cuộc nửa vời !
Sao mờ trăng tỏ cảnh chơi vơi.
Tri âm vắng bóng buồn khung cảnh
Bằng hữu xa hình quạnh chốn nơi
Chung rượu một mình run nhịp rót
Lệ lòng trơ trọi nén lần rơi
Nào ai vui thú quên thề hẹn
Lối cũ đường xưa nghẹn đắng lời …

Hiền Mai viết tiếp
Ngày 23/11/2015 

24 tháng 11 2015

X53. Hoàng Hôn Xứ Người

<D.115~Cuộc Sống>

Say mùi dân chủ tha hồ xướng

Dấn bước tự do khát vọng đầy



HOÀNG HÔN XỨ NGƯỜI

Trời quang tiết chuyển ở nơi đây
Lá vẫn xinh tươi dưới nắng gầy
Mảnh đất thân tình tràn sức sống
Thiên nhiên diễm lệ toả màu mây
Say mùi dân chủ tha hồ xướng
Dấn bước tự do khát vọng đầy
Nỗi nhớ quê nghèo thêm mạnh mẽ
Gìn lòng phấn đấu chẳng khờ ngây!

Nguyễn Đắc Thắng
20151123

---------------------------------------------
& Bài xướng của Trần Văn Hạng

HOÀNG HÔN XỨ NGƯỜI

Lơ lững ai treo chiếc bách đây
Nắng nghiêng chao dáng lộ hao gầy
Lưng trời cánh nhạn xuôi ngàn núi
Bóng nước hồ trong gợn áng mây
Cảnh gợi hồn vương thời dĩ vãng
Chiều buông dạ ngẩn tuổi thơ ngây
Vọng về một thuở xa xăm ấy
Cảm xúc trào dâng mắt lệ đầy.

Trần Văn Hạng
20/11/2015

---------------------------------------------
& Các bài họa

MÙA ĐÔNG CẢM

Như bao đông giá đổ về đây
Đè nặng hàng dương quặn trúc gầy
Phố xá một màu lai láng tuyết
Quê nhà hai ngã mịt mùng mây
Khơi nguồn bút hứng câu chưa trọn
Vịnh khúc thơ lòng ý đã ngây
Xe cộ thẳng đường đi hiếm thấy
Quay đầu tuột dóc đứng rên đầy

Trương văn Luỹ
IOWA 21-11-2015

---------------------------------------------

NỖI NHỚ

Mơ ước bạn hiền sẽ đến đây
Bao năm lưu lạc xót vai gầy!
Thương buổi hẹn hò trao ánh mắt
Mong giờ tao ngộ ngắm vầng mây
Bơ vơ xứ lạ hồn tê tái
Khắc khoải đêm dài dạ ngất ngây
Thầm nhủ xa người thôi luyến tiếc
Mà sao nỗi nhớ mãi đong đầy!

Như Thu

---------------------------------------------

QUÊ HƯƠNG THƯƠNG NHỚ

Quê hương vẫn tưởng mãi là đây
Sực tỉnh quên mình tuổi hạc gầy
Thắm thoát bao năm buồn đất khách
Xa xôi vạn dặm xót trời mây
Dòng sông bến nước lòng thương nhớ
Hàng phượng sân trường dạ ngất ngây
Tuổi dại thời nào đang sổng lại
Vầng trăng hết khuyết lại tròn đầy

Hải Rừng
21/11/2015

---------------------------------------------

BUỒN THƯƠNG QUÊ CŨ

Đông Hà xứ bạn chẳng như đây
Thời tiết chênh chao dễ yếu gầy
Nắng hạn dài ngày khô khốc nước
Mưa dầm suốt tháng mịt mù mây
Quên sao sắn luộc ăn thêm ngất
Nhớ lắm ngô rang gặm phát ngây
Vẫn biết ra đi còn phó mặc
Là hơn bám lại lệ tuôn đầy . . .

Võ Làng Trâm

---------------------------------------------

NGẬM NGÙI NỖI NHỚ

Tôi đã một mình trở lại đây
Dòng sông, bến nước, bụi tre gầy
Xưa từng xao xuyến thề trăng gió
Nay chỉ âm thầm ngắm bóng mây
Bao cuộc chia ly lòng quặn thắt
Bấy mùa nhung nhớ dạ sầu ngây
Chiều rơi chầm chậm trong hiu quạnh
Mắt lệ nghe như sắp ngập đầy.

Phương Hà

---------------------------------------------

MẤT MÁT

Cuối cùng anh đã trở về đây
Tìm lại hương nồng thuở dại ngây
Hiu hắt... thềm hoang phai sắc lá
Chập chùng... non lạnh nhạt màu mây
Chương đài xơ xác nhành dương úa
Lầu hạc chơ vơ bóng nguyệt gầy
Mất dấu Đào nguyên từ dạo đó
Người ơi...nước mắt bỗng rưng đầy!

Thy Lệ Trang

---------------------------------------------

HOÀNG HÔN QUÊ TÔI

Hoàng hôn chìm đắm xuống quê đây
Lác đác đường xưa bóng dáng gầy
Sương giá phũ mờ trên mái lá
Cánh cò bay vội dưới chân mây
Thương thời thơ ấu, lòng hoài cảm
Nhớ thuở phồn vinh, dạ ngất ngây
Lưu lạc bao năm miền đất khách
Mong cho làng cũ sống vui đầy...

Văn Thanh

23 tháng 11 2015

Hoàng Hạc Lâu - Thôi Hiệu

<C.001~Giai thoại văn chương>
Đề tài: HOÀNG HẠC LÂU
Biên soạn: Đỗ Chiêu Đức


* PHẦN GIỚI THIỆU

        Hoàng Hạc Lâu (HHL) nằm ở trên Hoàng Hạc Cơ của Xà Sơn thuộc đất Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc. Được xây dựng từ năm Hoàng Võ thứ 2 của nước Đông Ngô thời Tam Quốc (223 sau CN). Theo sách Nguyên Hòa Quận Huyện Đồ Chí ghi lại :"Tôn Quyền khi xây Cố thành ở Hạ Khẩu, vì thành tây giáp Trường Giang, góc Giang Nam lại có bờ đá lớn, nên xây lên một lầu cao để quan sát, gọi tên là HHL. Lầu được xây dựng cho mục đích quân sự". Nhưng theo sách "Cực Ân Lục" ghi lại, thì HHL là do dòng họ Tân Thị xây lên để làm tửu lâu.

        Qua các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, trước sau được tu sửa đến 10 lần, nhưng cuối cùng vẫn bị hũy ở đời vua Quang Tự thứ 10 (1884). Từ đời Bắc Tống cho đến khi bị hũy, HHL từng là Đạo Tràng lớn của Đạo giáo (Lão giáo). Là nơi truyền đạo của tiên ông Lữ (Lã) Động Tân (một trong Bát Tiên), tương truyền Tổ Sư Lã Động Tân đã cởi hạc thăng thiên trong ngày 20 tháng 5 ở HHL, nên nơi đây trở thành thánh tích của Đạo Giáo từ đó.

* HOÀNG HẠC LÂU hiện nay

    Năm 1957, khi xây cầu bắt ngang sông Trường Giang ở Vũ Xương, chân cầu dẫn đã chiếm dụng mất địa chỉ cũ của HHL. Mãi đến năm 1981, chính quyền TP Vũ Hán mới căn cứ các tư liệu lịch sử cho xây dựng lại HHL, cũng trên Xà Sơn nhưng cách địa chỉ cũ khoảng 1 ngàn mét. Đến tháng 6 năm 1985 mới khánh thành và cũng trở thành biểu tượng của TP Vũ Hán.

        HHL mới gồm 5 tầng, cộng thêm 5 mét đỉnh tháp là hình một Hồ Lô khổng lồ. Tổng chiều cao là 51,4 mét, cao hơn lầu cũ khoảng 20 mét, chiều rộng là 30 mét, gấp đôi chiều rộng của lầu cũ. Toàn bộ được xây dựng bằng bê tông cốt sắt kiên cố. Trong ngoài, cỏ cây hoa kiểng, tranh họa, điêu khắc ... đều theo một chủ thể là "Bạch vân Hoàng Hạc". Cột lớn 2 bên là một đôi câu đối dài 7 mét như sau :
爽氣西 來 雲霧掃開天地撼, // 大 江東 去波涛 洗净 古 今愁。Phiên âm Hán Việt: Sảng khí tây lai, vân vụ tảo khai thiên địa hám / Đại giang đông khứ, ba đào tẩy tịnh cổ kim sầu. Dịch nghĩa: Hơi mát từ hướng tây đến, mây mù quét sạch mở ra làm lay động đất trời. / Sông lớn chảy về đông, sóng gió theo dòng rửa sạch cả nỗi sầu kim cổ.

        Hoàng Hạc Lâu là một "Đệ nhất lâu danh thắng" bao đời nay của Trung Hoa, thu hút biết bao văn nhân, thi sĩ đến đây để ngâm vịnh. Trong số đó, phải kể đến bài thơ Thất ngôn Bát cú của Thôi Hiệu là tuyệt tác nhất, thơ và lầu cùng bổ túc cho nhau để cùng lưu danh thiên cổ. Chúng ta hãy cùng đọc lại bài thơ tuyệt tác này


1. HOÀNG HẠC LÂU

1.1. Nguyên bản Hán Văn

        黄鹤樓                                 HOÀNG HẠC LÂU 
        昔人已乘黃鶴去             Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ 
        此地空餘黃鶴樓             Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu        
        黃鶴一去不復返              Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản       
        白雲千載空悠悠             Bạch vân thiên tải không du du 
        晴川歷歷漢陽樹             Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thọ
        芳草萋萋鸚鵡洲             Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
        日暮鄉關何處是             Nhật mộ hương quan hà xứ thị 
        煙波江上使人愁             Yên ba giang thượng sử nhân sầu  
        崔颢                                     Thôi Hiệu

1.2. Dịch nghĩa Việt văn

        Người ngày xưa đã cởi hạc bay đi mất rồi, nên nơi nầy chỉ còn lại một Hoàng Hạc Lâu trống không mà thôi. Hoàng hạc đã một đi không trở lại, chỉ có mây trắng là vẫn dằng dặc bay mãi ngàn năm. Trời quang mây tạnh trên sông nên nhìn rõ cả những hàng cây bên bờ Hán Dương đối diện, và màu cỏ non xanh biếc trên bãi Anh Vũ ở giữa ngả ba sông. Khi chiều xuống, lúc mặt trời chen lặn, ta không phân biệt phương nào là hướng của quê hương, nên dạ chợt âu sầu vì khói sóng trên sông mờ mịt... Cảnh dẫn đến tình và tình hòa vào cảnh thành một bức tranh sống động gợi cảm tuyệt vời !

1.3. Giải thích từ ngữ

        Tích 昔 : Cũ, xưa. Chiết tự chữ nầy gồm có 3 chữ : Niệm 廿, Nhất 一 và Nhật 日. Niệm (còn đọc là TRẤP) nghĩa là 20. Nhất là một. Nhật là ngày. Chuyện nào đó mà qua 21 ngày là CŨ rồi. Sở Khanh đã dùng chữ Tích nầy rồi thêm vào chữ Việt 越 là Tẩu 走 và Tuất 戌 vào nữa để dụ dỗ cô Kiều bỏ trốn. Cô Kiều cũng thông minh đáo để, cô đã.... Lấy trong ý tứ mà suy :"Ngày hai nươi mốt, tuất thì phải chăng?"
        Thừa 乘 : Cởi, Đi. Ví dụ (Vd) : Thừa mã là cởi ngựa. Thừa xa là đi xe. Trong bài thơ là Thừa Hoàng hạc là Cởi hạc vàng. Thừa còn có nghĩa là Nhân cơ hội. Nhân dịp Vd : Thừa Hứng là nhân lúc còn đang hứng thú. Thừa còn một nghĩa nữa là Toán Nhân. Vd : Thừa số.
        Phản 返 : Đi ngược trở lại. Vd : Phản hồi : đi trở về. Có bộ Xước là bước đi. 反 : Ngược lại. Vd : Phản bội, phản nghịch. Phản Trụ đầu Châu....
        Du 悠 : Xa, Dài. Lâu. Du du : có nghĩa là diệu vợi, dằng dặc..
攸 : Tên của cụ Nguyễn Du. DU nầy có nghĩa là nơi đây, chốn nầy.
        Lịch 歷 : Từng trải, kinh qua. Có bộ Chỉ là dấu chân ở bên dưới. Vd: Lịch lãm, Lịch duyệt. Trong bài Lịch Lịch có nghĩa là rành rành, rõ ràng từng chút một. 曆 : Lịch nầy có bộ Nhật bên dưới là Cuốn Lịch mà ta xé hằng ngày.
        Thê 萋 : Vẻ xanh của cỏ. Thê Thê là xanh non, mơn mởn. Có bộ Thảo trên đầu. Còn 妻 không có bộ Thảo. THÊ là Bà xã, là Hiền Thê Lương Mẫu.
        Mộ 暮 : Chiều, hoàng hôn. Bộ Nhật nằm bên dưới, chỉ mặt trời lặn. 墓 : Mộ Mả. Bộ Thổ ở bên dưới, chỉ đã dùi sâu dưới 3 tất đất đất.慕 : Ái mộ. Ngưởng mộ. Có bộ Tâm ở bên dưới ( chữ Tiểu thêm 1chấm ).募 : Quyên góp, Bắt. Vidu.: Mộ quyên là ddi lạc quyên. Mộ Binh là bắt lính. Chữ Mộ nầy có bộ Lực ở dưới. có nghĩa là phải bỏ công sức ra mà làm.
        Sử 使 : Phó từ : Có nghĩa Làm cho, Khiến cho.Sử Nhân Sầu : Khiến cho người ta buồn. Động từ : Dùng, Xài. Vd : Sử dụng. Danh từ : Đọc là SỨ. Sứ giả, Sứ thần, Đại Sứ.

1.4. Dịch thơ

        Người xưa đã cởi hạc bay cao
        Bỏ lại ven sông Hoàng Hạc Lâu
        Hoàng hạc một đi không trở lại
        Bạch vân muôn thuở vẫn bay mau
        Hán Dương sông tạnh rừng cây tỏ
        Anh Vũ bãi xa cỏ biếc màu
        Chiều xuống quê nhà xa chẳng thấy
        Đầy sông khói sóng ngẩn ngơ sầu !
        Đỗ Chiêu Đức.

* Bài diễn nôm Luc Bát của Thi sĩ Tản Đà :

        Hạc vàng ai cởi đi đâu
        Mà đây Hoàng Hạc riêng Lầu còn trơ
        Hạc vàng đi mất từ xưa
        Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
        Hán Dương sông tạnh cây bày
        Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
        Quê hương khuất bóng hoàng hôn
        Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !...

        Quả là cảnh tình hợp nhất, tình cảnh tương liên, hòa hợp thành một bức tranh tuyệt tác... Thảo nào mà khi đến đây, nhìn lên vách thấy bài thơ nầy, Thi Tiên Lý Bạch đã phải quẳng bút mà than rằng :

        眼前有景道不得            Nhởn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
        崔颢题詩在上頭            Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu

        Nghĩa là trước mắt có cảnh mà nói chẳng nên lời, vì Thôi Hiệu đã đề thơ ở phía trên đầu ta rồi! Vì Lý biết chắc rằng, nếu mình có miễn cưỡng làm thơ, thì chắc chắn chẳng bao giớ bằng được bài thơ mà Thôi Hiệu đã làm, nên thôi. Nhưng nỗi lòng ấm ức vẫn cứ mãi âm ĩ trong tâm, cho nên khi đến đất Kim Lăng, lên ngắm cảnh trên Phụng Hoàng Đài, ông mới xúc cảnh sinh tình, mà làm nên bài thơ " Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài " rất xuất sắc, gieo vần và âm hưởng đều tương tự như bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Phải chăng để giải tỏa đi cái ấm ức bấy lâu nay ở trong lòng ? Ta hãy cùng đọc bài thơ này



2. PHỤNG HOÀNG ĐÀI

2.1. Nguyên tác Hán Văn

        登金陵鳳凰台                     ĐĂNG KIM LĂNG PHỤNG HOÀNG ĐÀI
        鳳凰台上鳳凰游,         Phụng Hoàng Đài thượng Phụng hoàng du   
        鳳去台空江自流。         Phụng khứ đài không, giang tự lưu
        吳宮花草埋幽徑,         Ngô cung hoa thảo mai u kính
        晉代衣冠成古邱。         Tấn đại y quan thành cổ khâu
        三山半落青天外,         Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
        二水中分白鷺洲。          Nhị thủy trung phân Bạch lộ châu 
        總為浮雲能蔽日,          Tổng vị phù vân năng tế nhật
        長安不見使人愁。          Trường An bất kiến sử nhân sầu !
        李白                                        Lý Bạch 

2.2. Dịch nghĩa Việt văn

Lên Phụng Hoàng Đài ở Kim Lăng.
Ngày xưa, phụng hoàng đã từng dạo chơi trên đài Phụng Hoàng nầy,
Nay phụng đã đi rồi, chỉ còn dòng sông lặng lẽ trôi.
Hoa cỏ trong cung Ngô ngày xưa, nay đã tiêu điều trong hẽm vắng,
Những bậc vương hầu khanh tướng nhà Tấn, nay cũng chỉ còn lại những nấm mộ xưa.
Nhìn ra xa, trong cảnh mây mù, ba ngọn núi liền nhau như bị rớt một nửa trên vòm trời xanh,
Bên dưới dòng sông Tần Hoài tách làm đôi chảy thành 2 nhánh bởi cù lao Bạch lộ (cù lao có rất hiều cò trắng trên đó mà thành tên ).
Trong cảnh trí nầy, mây mù lại che khuất cả vầng thái dương,
Nên không thấy được đất Trường An, khiến cho người ta càng thấm thía thêm nỗi sầu nhân thế...(Ông ví mây mù như là bè lũ nịnh thần, che lấp mặt trời, lấn áp Thiên tử, khiến cho người ưu thời mẫn thế cảm thấy lo buồn...) (Theo Đường Thi Tam Bá Thủ).

2.3. Giải thích từ ngữ

- Phụng Hoàng Đài: nằm ở Phụng Đài Sơn thuộc TP Nam Kinh (là Kinh đô Kim Lăng ngày xưa), phía nam Quận Giang Ninh thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay. Tương truyền vào năm Tống Nguyên Gia của thời Nam Triều có rất nhiều chim Phụng hoàng tụ tập ở nơi nầy, vì thế mà xây đài tưởng niệm, Đài và Núi đều lấy tên Phụng Hoàng từ đó.
- Mai 埋 : chôn, vùi. Vd : Mai một ; vùi lấp, chôn vùi.
- Y Quan 衣冠 : Áo mão : chỉ những người quyền quý, quan chức.
- Cổ Khâu 古邱 : Gò đất xưa, ở đây ý chỉ các gò đất hoang.

2.4. Dịch thơ

        Phụng Hoàng Đài trước phụng hoàng chơi
        Phụng đã biệt tăm, sông vẫn trôi
        Hoa cỏ cung Ngô đà vắng vẻ
        Y trang nhà Tấn cũng xa rồi
        Ba núi lưng trời như ẩn hiện
        Hai dòng sông nước rẻ đôi nơi
        Cũng bởi mây mù che mặt nhật
        Trường An chẳng thấy dạ bồi hồi!
        Đỗ Chiêu Đức.

        So với " Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu " thi bài nầy ngụ ý xâu xa hơn, thâm trầm và có chiều sâu hơn, kỹ thuật cũng nghiêm cẩn hơn, nhưng thơ của Thôi Hiệu lại khoáng đạt hơn, trực tả cảnh trí trước mắt, hơi thơ liền lạc đi một mạch từ đầu đến cuối, và " đi " thẳng vào lòng người đọc !.... Hai bài đều có cái hay riêng, nhưng sao ta vẫn thấy Hoàng Hạc Lâu như vẫn thanh thoát và gợi cảm hơn... Có phải chăng... tại Hoàng Hoạc Lâu gần gũi, thân thiết với người đọc hơn là với Phụng Hoàng Đài ?!!!....

        Không riêng gì Lý Bạch, còn có rất nhiều thi sĩ đương thời ngấm ngầm ganh tỵ với bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Họ không ganh ghét, mà chỉ muốn chứng tỏ tài năng của bản thân mình, vì địa vị và tài hoa của họ cũng không thua Thôi Hiệu chút nào cả.!. Trong số những thi sĩ ngấm ngầm nầy, ta thấy có Vương Xương Linh, tác giả của bài Khuê Oán nổi tiếng với "Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu!". Ông đã làm bài Vạn Tuế Lâu với đủ cả âm hưởng và vần điệu của Hoàng Hạc Lâu. Nào, ta hãy cùng đọc và tìm hiểu bài thơ nầy


3. VẠN TUẾ LÂU

3.1. Nguyên tác Hán văn

        萬歳楼                                     VẠN TUẾ LÂU
        江上巍巍萬歳楼。             Giang thượng nguy nguy Vạn Tuế Lâu
        不知経歴幾千秋。             Bất tri kinh lịch kỷ thiên thu
        年年喜見山長在。             Niên niên hỉ kiến sơn trường tại
        日悲看水独流。                 Nhật nhật bi khan thủy độc lưu
        猿狖何曾離暮嶺。             Viên dứu hà tằng ly mộ lĩnh
        鹭鷀空自泛寒洲。             Lô tư không tự phiếm hàn châu
        誰堪登望雲煙裏。             Thùy kham đăng vọng vân yên lý
        向晩茫茫發旅愁。             Hướng vãn man man phát lữ sầu 
        王昌齡                                     Vương Xương Linh. 

3.2. Dịch nghĩa Việt văn

Vạn Tuế Lâu cao cao ngất nghểu trên bờ sông Trường Giang,
Không biết là trải qua mấy ngàn thu rồi.
Nhưng, vẫn còn mừng vì mỗi năm đều trông thấy núi xanh vẫn còn đó,
Chỉ buồn là mỗi ngày đều thấy dòng nước âm thầm lặng lẽ trôi.
Bầy khỉ vượn vẫn luyến lưu chưa từng rời khỏi đĩnh núi mỗi khi chiều xuống,
Cũng như đàn cò kia vẫn luôn luôn bay lượn vô tư lự trên bãi sông lạnh lẽo.
Ai là người có thể leo lên đứng trên lầu cao nầy, nhìn vào trong khói mây mờ mịt mỗi buổi chiều,
Mà không thấy lòng trổi dậy một nỗi buồn lữ thứ tha hương ?!

3.3. Giải thích từ ngữ

- Nguy nguy : Cao ngất nghểu, cao vòi vọi.
- Kinh lịch : Từng trải, trải qua.
- Viên dứu : Từ kép chỉ Khỉ Vượn nói chung.
- Lô tư : Cò trắng, một loại chim đồng.
- Phiếm 泛 : Động từ, có nghĩa là trôi nổi, chợt hiện. bơi chèo. Vd: Phiếm chu là chèo thuyền đi vòng vòng chơi. Tính từ , có nghĩa Rộng rãi, Nói chung. Vd : Phiếm luận. Một nghĩa nữa là Hời hợt. Vd: Phiếm phiếm chi giao 泛泛之交 : là bạn bè bình thường, không thân thiết.

3.4. Dịch thơ

★ Bài dịch của Đỗ Chiêu Đức

VẠN TUẾ LÂU

Ngất nghểu trên sông Vạn Tuế Lầu
Mấy ngàn năm cũ vẫn cao cao
Mừng trông núi biếc còn trơ mãi
Buồn ngắm sông côi vẫn chảy mau
Lũ vượn luyến lưu chiều núi thẳm
Đàn cò bay lượn bãi sông sâu
Nào ai lên gác trông mây khói
Chiều xuống mênh mông lữ khách sầu!
Đỗ Chiêu Đức

★ Bài dịch của Thầy Nguyễn Hữu Lộc

VẠN TUẾ LÂU

Sừng sửng bên sông Vạn Tuế Lầu
Dãi dầu nào biết mấy nghìn thu
Năm qua mừng thấy non xanh vẫn
Ngày lại buồn trông nước một mầu
Khỉ vượn không rời chiều núi thẫm
Vạc cò lượn cánh bãi hoang sâu
Lên cao vời vợi trời mây khói
Lòng khách hoàng hôn bỗng phát sầu.
Mailoc phỏng dịch
10/10/2015

★ Bài dịch của Thầy Phạm Khắc Trí

VẠN TUẾ LÂU

Bên sông lừng lững mấy tầng cao
Lầu vạn năm xưa từ thuở nào
Trên núi đá trơ vui tuế nguyệt
Dưới dòng nước chảy thẹn trăng sao
Đầu non lũ vượn ngồi ngơ ngáo
Cuối bãi bầy cò lượn xớn xao
Mây khói mịt mờ thiên cổ lụy
Trời chiều đất khách những nao nao.
PKT 11/10/2015

        Mặc dù không so được với Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, và Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài cũa Lý Bạch, nhưng đây cũng là một bài thơ hay tả lại cảnh trí của một Danh Lâu thuở xưa ở trên Tây Nam thành của Phủ Trấn Giang thuộc Tỉnh Giang Tô.

        Còn rất nhiều thơ tả lại "Tứ Đại Danh Lâu" 四大名楼 (Đằng Vương Các, Hoàng Hạc Lâu, Nhạc Dương Lâu và Phù Dung lâu). Nhưng vì bài viết chỉ đề cập đến những bài thơ có liên quan đến Hoàng Hạc Lâu mà thôi....

Đỗ Chiêu Đức.

21 tháng 11 2015

Đặp Chắn Dòng Cửu Long

<D.114><Thời Sự Việt Nam>

Lượng cá về xuôi đang khánh kiệt

Lòng sông sắp cạn chảy dòng vơi



ĐẬP CHẮN DÒNG CỬU LONG

Đây rồi thảm trạng sẽ dần rơi
Tự hướng xa xăm tận góc trời
Lượng cá về xuôi đang khánh kiệt
Lòng sông sắp cạn chảy dòng vơi
Đồng khô đốt rụi màu xanh thắm
Nắng hạn bùng lên sức nóng ngời
Đập chắn trên nguồn gây hiểm họa
Nghe mùi biển cả thoáng từng nơi!

Maithang
20151121

-------------------
♣ Bài xướng của Phương Hà

THIÊN NHIÊN TUYỆT VỜI

Em hỏi vì sao có tuyết rơi
Mây bay vần vũ ở trên trời
Suối tuôn róc rách không ngừng nghỉ
Sóng vỗ ầm ào chẳng giảm vơi
Đêm lạnh mưa sa buồn áo não
Đỉnh cao băng đóng đẹp trong ngời
Tuyệt vời, tất cả đều do nước
Biến đổi theo mùa, tại mỗi nơi (*)

Sông Thu
18/11/2015

(*) Nước biến đổi trạng thái lỏng, hơi hoăc đông đặc
là do ảnh hưởng của nhiệt độ ( mùa, độ cao…) và địa hình…


-----------------
♣ Các bài hoạ khác  

1. VÌ EM...

Vì em sầu não tuyết sương rơi
Mưa gió buồn giăng tận cuối trời
Núi khóc âm thầm mây lắng đọng
Biển sầu dai dẳng sóng chơi vơi
Chiều đông năm ấy chưa phai nhạt
Nắng hạ ngày nao vẫn rạng ngời
Một kiếp phù du như cát bụi
Buồn vui rồi cũng đến cùng nơi.

Văn Thanh

-----------------
2. DUYÊN NỢ

Cho dù bão táp, gió mưa rơi
Ta mãi bên em đến góc trời
Âu yếm kề vai nhìn bướm lượn
Thì thầm tựa cửa ngắm trăng vơi
Sắt son gối mộng luôn nồng ấm
Lấp lánh sao đêm mãi sáng ngời
Duyên nợ ba sinh tròn hạnh phúc
Thỏa lòng chia sẻ khắp muôn nơi.

Như Thu

------------------

3. KHÉP MI...

Đừng hỏi vì sao lệ mãi rơi
Mênh mông mây xám úa chân trời
Thu sầu, biển vắng...hương thu đọng
Nguyệt khuyết, đêm tàn...bóng nguyệt vơi
Nước đã xa buông bờ cát lạnh
Dạ còn tưởng vọng cánh hoa ngời
Người xưa bàng bạc trong sương khói
Khép nhẹ mi buồn...ngỡ đến nơi !

Thy Lệ Trang



4. SINH THÁI ĐIÊU TÀN

Mưa tràn lũ lụt cứ tuông rơi
Thời tiết hiện nay chẳng thuộc trời
Hậu quả con người gây chất ngất
Tài nguyên trái đất mất dần vơi
Tai ương thảm họa nhiều tăm tối
Cảnh sống nguồn vui thiếu rạng ngời
Hỏi tại lòng tham không có đáy
Điêu tàn sinh thái khắp cùng nơi

Hải Rừng
19/11/2015

-------------------

5. THẢM HỌA CỬU LONG

Đồng bằng sông Cửu họa tràn rơi
Đất Việt tang thương khắp tận trời
Đê đập Vân Nam xây chắn nước
Thượng nguồn hoa lục tháo cho vơi
Miền Tây cạn thấp mùa khô nóng
Biển mặn trào dâng sóng ngất ngời
Lúa gạo đâu còn dễ sản xuất
Dân tình đói khổ chịu muôn nơi

Hải Rừng
22/11/2015