Nhãn

Hiển thị các bài đăng có nhãn Góc Thơ Cổ -dịch Việt thi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Góc Thơ Cổ -dịch Việt thi. Hiển thị tất cả bài đăng

07 tháng 8 2022

C. Tự Thuật - Lê Thánh Tông

<C.076><Dịch Việt thi>


★ Nguyên bản Hán văn

自述
五十年華七尺軀,
剛腸如鐵卻成柔。
風吹窗外黃花謝,
露浥庭前綠柳癯。
碧漢望窮雲杳杳,
黃梁夢醒夜悠悠。
蓬萊山上音容斷,
冰玉幽魂入夢無。
黎聖宗

★ Chuyển âm Hán Việt

TỰ THUẬT 
Ngũ thập niên hoa thất xích khu,
Cang tràng như thiết khước thành nhu.
Phong xuy song ngoại hoàng hoa tạ,
Lộ ấp đình tiền lục liễu cù.
Bích hán vọng cùng vân diểu diểu,
Hoàng Lương mộng tỉnh dạ du du.
Bồng Lai sơn thượng âm dung đoạn,
Băng ngọc u hồn nhập mộng vô ?!
Lê Thánh Tông 

Bài thơ thứ 50 - bài thơ cuối đời của vua Lê Thánh Tông 

★ Chú thích

    - TỰ THUẬT 自述 : Tự kể lể về bản thân mình. Sử chép, tháng giêng năm Đinh Tị (1497), nhà vua bệnh nặng, biết khó qua khỏi, ông bèn tựa ngọc kỷ mệnh cho thái tử Tăng (Lê Hiến Tông) lên nối ngôi và làm bài thơ tuyệt mệnh này. Đây là bài thơ cuối cùng trong đời ông. Ông mất ngày 29 tháng giêng năm Đinh Tị (1497). Qua bài này, tâm tư nhà vua rất trong sáng, khảng khái; nhận thức cuộc sống như những nhân sĩ, những thi sĩ bình thường; coi cuộc đời rốt cuộc cũng như là một giấc mộng, không hề có giọng “kẻ cả dạy đời” gì cả.
    - Khu 軀 : là Thân Khu 身軀 là Thân thể. THẤT XÍCH KHU là Tấm thân bảy thước.
    - Cang Tràng hay Cương Trường 剛腸 : CANG là Cứng; TRÀNG là Ruột; Nên CANG TRÀNG chỉ Lòng dạ cứng rắn.
    - Hoàng Hoa 黃花 : là Hoa vàng, là Hoa cúc của mùa thu.
    - Lộ Ấp 露浥 : LỘ là hãt móc hạt sương; ẤP là Thấm ướt, ngấm ướt.
    - Bích Hán 碧漢 : Chỉ bầu trời xanh biếc của mùa thu.
    - Hoàng Lương Mộng 黃梁夢 : là Giấc Kê Vàng. Theo tích Chẩm Trung Ký 枕中記đời Đường : Lư Sinh người xứ Hàm Đan, thi rớt, gặp đạo sĩ họ Lữ đưa cho chiếc gối bảo kê đầu lên mà ngủ trong lúc chủ quán đang bắt nồi kê lên nấu. Lư Sinh thấy mình về quê cưới được vợ giàu và đẹp; năm sau lại thi đậu tiến sĩ; rồi làm quan suốt 30 năm thăng đủ các chức; Cuối cùng là Tể Tướng chỉ sau có nhà vua, hưởng hết vinh hoa phú quý trên đời; Năm đứa con trai lại đỗ đạt làm quan, cuộc sống vinh hiễn kéo dài đến 80 tuổi mới nhuốm bệnh mà qua đời... Vừa lúc đó Lư Sinh cũng giật mìh tỉnh mộng, đạo sĩ họ Lữ vẫn còn ngồi đó, và nồi kê vàng của chủ quán đang nấu còn chưa chín tới. Chàng cảm thán cho cuộc đời phu du hư ảo, vinh hoa phú qúy cũng chỉ như là một giấc mộng thoáng qua mà thôi. Như 4 câu thơ mở đầu cho bài hát nói Vịnh Nhân Sinh của cụ Nguyễn Công Trứ như sau :
            Ôi, nhân sinh là thế ấy,
            Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.
            Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
            Vừa tỉnh giấc NỒI KÊ chửa chín.

    - Bồng Lai 蓬萊 : Theo truyền thuyết trong Sơn Hải Kinh 《山海经》và các sách xưa cũng có ghi lại chuyện năm tiên đảo bị chìm hết hai, nên chỉ còn lại có “Phương Hồ” 方壺, “Doanh Châu” 瀛洲, và “Bồng Lai” 蓬萊. Tục gọi là " Bồng Lai Tam Đảo 蓬莱三岛 ". Vì là nơi của tiên ở nên còn gọi là " Bồng Lai Tiên Cảnh 蓬莱仙境 " để chỉ cảnh đẹp của tiên giới mà trên đời không thể có được. Sở dĩ Bồng lai nổi tiếng hơn hai tiên đảo kia là vì đó là nơi ở của Bát Tiên trong sự tích Bát Tiên Quá Hải. Trong tác phẩm Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh, khi luận về chữ VUI, ông Sãi đã nói với bà Vãi rằng :
            Non BỒNG LAI bước tới, sãi vui với Bát Tiên,
            Núi Thương Lãnh tìm lên, sãi vui cùng Tứ Hạo.

    - Băng Ngọc U Hồn 冰玉幽魂 : BĂNG NGỌC chỉ vừa lạnh như băng vừa trong sáng như ngọc; U HỒN là Mảnh hồn nơi u minh vắng lặng; Nên BĂNG NGỌC U HỒN thường dùng để chỉ hồn phách của các cô gái trong trắng chết non; Ở đây, nhà vua mượn để ví mình khi chết rồi thì hồn phách cũng cô đơn lạnh lẽo giống như là những người thường mà thôi.

★ Dịch nghĩa

        Tấm thân bảy thước đã trãi qua năm chục niên hoa rồi, lòng dạ có cứng rắn như sắt đã cũng phải hóa mềm ra thôi. Như gió thu hiu hắt ngoài song làm tàn tạ những đóa hoa vàng, và sương thu cũng đã đẫm ướt các cành liễu gầy gò trong sân đình. Ngóng nhìn mút mắt bầu trời thu cao xanh ngát chỉ thấy các đám mây trôi xa xa; Đôi khi như chợt tỉnh giấc kê vàng thì lại thấy đêm trường dài dằng dặc. Thanh sắc dìu dặc trên núi Bồng Lai cũng đà đoạn tuyệt, biết đến bao giờ mảnh hồn cô đơn lạnh lẽo nầy mới nhập được vào mộng đây ?!
        So với hùng tâm tráng chí của 24 năm trước, thì sau cơn bạo bệnh tinh thần của nhà vua đã xuống rất thấp; Còn đâu hào khí ngất trời của những năm xưa khi duyệt binh trên sông biển với niềm tự hào "南天萬古山河在 Nam thiên vạn cổ sơn hà tại". Trước thềm sinh, lão, bệnh, tử, nhà vua cũng có cái tâm lý như bao dân thường khác : Uy quyền tột bực, phú qúy vinh hoa theo đuổi trong đời rốt cuộc rồi cũng qua đi như một giấc hoàng lương : Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Chỉ còn lại một mảnh u hồn ước mơ được về nơi Bồng Lai Tiên Cảnh !

★ Dịch thơ của Đỗ Chiêu Đức

TỰ THUẬT

- Thất ngôn
Bảy thước tấm thân ngũ thập nầy,
Cang trường như sắt cũng mềm đây.
Ngoài song gió hắt hoa vàng rụng,
Trước cổng sương sa liễu sắc gầy.
Trời biếc vời trông mây vợi vợi,
Kê vàng tỉnh mộng giấc ngây ngây.
Bồng Lai thanh sắc sao biền biệt,
Hồn lạnh bao giờ nhập mộng đây ?!

- Lục bát
Năm mươi bảy thước tấm thân,
Cang trường như sắt dần dần mềm ra.
Ngoài song gió hắt rụng hoa,
Trước sân sương đẫm là đà liễu bay.
Trông trời mây lướt thướt trôi,
Kê vàng chợt tỉnh đêm dài thưởt tha.
Bồng Lai thanh sắc đâu xa,
U hồn nhập mộng biết là khi nao ?!

Đỗ Chiêu Đức

----------------------- 

★ Mai Thắng dịch

TỰ THUẬT

- Dịch thất ngôn
Năm chục năm dài bảy thước thân
Lòng cương trực mấy cũng nhu dần
Hoa vàng gió lộng rơi ngoài cửa
Nhánh liễu sương dầm rũ trước sân
Biếc khoảng xanh trời mây tản mạn
Trường mơ tỉnh giấc mộng bần thần
Bồng Lai thượng cảnh hòa âm dứt
Phiến lạnh neo hồn cõi định phân.

- Dịch lục bát
Thân vừa năm chục năm tròn
Dù cương trực vẫn hao mòn sắt gang
Gió thu rụng cánh cúc vàng
Sương dầm nhánh liễu bẽ bàng trước sân
Trời xanh mây ngó bâng khuâng
Kê vàng mộng tỉnh, bâng khuâng nỗi đời
Bồng Lai thượng cảnh thôi mời
Hồn neo phiến lạnh đợi thời nào đây?

Nguyễn Đắc Thắng – 220806 

14 tháng 3 2021

C. Xuân Mộ - Thái Thuận

<C.057><Dịch Việt thi> 

XUÂN MỘ - THÁI THUẬN (1400-?)
(Phó soái Hội Tao Đàn nhà Hậu Lê)


★ Bản chữ Hán cổ

春暮                              
百年身世嘆浮萍, 
春去誰能老下成。 
流水橋邊楊柳影, 
夕陽江上鷓鴣聲。 
月於煙樹雖無分, 
風與天香尚有情。 
九十韶光容易過, 
草心遊子苦難平。 
蔡順                                  

★ Phiên âm Hán Việt 

XUÂN MỘ
Bách niên thân thế thán phù bình
Xuân khứ thuỳ năng bất lão thành
Lưu thuỷ kiều biên dương liễu ảnh
Tịch dương giang thượng giá cô thanh
Nguyệt ư yên thụ tuy vô phận
Phong dữ thiên hương thượng hữu tình
Cửu thập thiều quang dung dị quá
Thảo tâm du tử khổ nan bình.
Thái Thuận 

★ Dịch nghĩa

 Xuân Chiều
Thân thế trăm năm than cho kiếp bèo nổi
Xuân đi rồi có ai không thành người già
Bên cầu nước chảy bóng dương liễu thướt tha
Trên sông chiều tà tiếng đa đa não nuột
Trăng lồng trong khói cây tuy không phận sự
Gió quyến hương trời vẫn có tình với nhau
Chín chục thiều quang qua dễ dàng quá
Nổi lòng người đi đó đây khó giữ bình thản.

★ Dịch thơ 

XUÂN CHIỀU

- Thất ngôn
Nghĩ phận thân bèo kiếp nổi trôi
Xuân qua thấu cảm lão duyên rồi
Bên cầu nước chảy hàng dương lặng
Giữa bóng chiều buông tiếng cuốc côi
Cuộn khói lồng trăng lay ảnh ảo
Hương trời quyện gió luyến tình xuôi
Thiều quang chín chục sao mà chóng
Lãng tử ôm lòng khó thể nguôi.

- Lục bát
Thân bèo một kiếp nổi nênh
Xuân về đã cảm già tênh đến rồi
Bên cầu liễu rũ nước trôi
Buông chiều vọng tiếng cuốc côi não lòng
Ánh trăng khói cuộn đan lồng
Hữu tình gió quyện hương nồng luyến mơ
Thiều quang chín chục ai ngờ
Ôm lòng lãng tử ngẩn ngơ bồi hồi

Mai Thắng
(180208)

13 tháng 3 2021

C. Xuân Hiểu - Thái Thuận

<C.056><Dịch Việt thi>

XUÂN HIỂU - THÁI THUẬN (1400-?)
(Phó soái Hội Tao Đàn nhà Hậu Lê)



★ Bản chữ Hán cổ của bài thơ

春曉
忽聞何處鳥,
客枕夢回新。
窗外雲如幕,
空中雨似塵。
花容猶隱露,
草色欲圍人。
遊子吟風月,
誰能報得春。
蔡順

★ Phiên âm

XUÂN HIỂU    
Hốt văn hà xứ điểu
Khách chẩm mộng hồi tân
Song ngoại vân như mạc
Không trung vũ tự trần 
Hoa dung do ẩn lộ
Thảo sắc dục vi nhân
Du tử ngâm phong nguyệt
Thùy năng báo đắc xuân.
Thái Thuận 

        * Thái Thuận 蔡順 (1440-?) tự Nghĩa Hoà, hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, sinh 1440. Đậu tiến sĩ 1475 (niên hiệu Hồng Đức thứ 6). Làm quan ở nội các viện triều Lê Thánh Tông hơn 20 năm, sau được bổ làm tham chính ở Hải Dương, sau nữa được đặc cách giữ chức phó nguyên suý hội Tao Đàn.
        Tác phẩm còn lại Lữ Đường thi di cảo do con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính Mô sưu tầm, biên soạn.

★ Dịch nghĩa

Buổi Sớm Mùa Xuân
Chợt nghe tiếng chim hót ở tận nơi nào,
Khách tỉnh dậy sau giấc mộng mới nối.
Ngoài song mây giăng giăng như màn che,
Trên bầu trời mưa lất phất như bụi phủ
Dáng hoa còn ẩn hiện trong sương sớm
Màu cỏ như muốn vây lấy con người.
Du tử ngâm thơ dưới trăng hoa,
Nào ai là người đã báo tin xuân đâu 

★ Dịch thơ

XUÂN SỚM

- Thất ngôn (ngũ ngôn)
(Chợt nghe) rộn tiếng chim vừa hót
(Nằm nướng) gối mơ duỗi mộng đầy
(Giăng mắc) mây mù dày cửa phủ
(Sa trùng) mưa bụi kín trời vây
(Mờ mờ) sương ẩn đài hoa mới
(Dịu dịu) chân quanh lớp cỏ gầy
(Thoả thích) gió trăng đùa lãng tử
(Ôi dào) ai gợi báo xuân đây?

- Lục bát
Chợt nghe rộn tiếng chim vui
Nướng thêm tí nữa kéo lùi giấc mơ
Ngoài song lấp kín mây mù
Ngập trời mưa bụi phủ mờ bủa vây
Đài hoa ngậm hạt sương đầy
Hồ như thảm trải cỏ gầy quấn chân
Say đời lãng tử - gió trăng
Ai người hiệu báo rằng xuân đã về?

Mai Thắng
(180208)

14 tháng 1 2021

C. Thơ Nguyễn Trãi – Phần A

<C.047><Dịch Việt thi>

NGUYỄN TRÃI - 
Phần A: TRƯỚC KHI THÀNH DANH
(Thời Hậu Lê VN - Đỗ Chiêu Đức sưu tầm)




 Bài 1. THÍNH VŨ

1.1. Nguyên bản 

聽雨                          
寂寞幽齋裏,      
終宵聽雨聲。    
蕭騷驚客枕,      
點滴數殘更。      
隔竹敲窗密,     
和鐘入夢清。      
吟餘渾不寐,      
斷續到天明。      
阮廌                              

1.2. Phiên âm

THÍNH VŨ 
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu hao kinh khách chẩm
Điểm trích sổ tàn canh
Cách trúc xao song mật 
Hoà chung nhập mộng thanh
Ngâm dư hồn bất mị
Đoạn tục đáo thiên minh.
NGUYỄN TRÃI 

1.3. Dịch nghĩa 

Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.

1.4. Dịch thơ

NGHE MƯA

Thư phòng đêm tỉnh mịch
Nghe rả rích canh dài
Khách ngậm buồn da diết
Mưa tuôn đổ miệt mài
Xạc xào bên bụi trúc
Vang vọng giữa màng tai
Thao thức hoài không ngủ
Nhịp đều tận ánh mai

Mai Thắng  
190930

---------------------- 

 Bài 2. KÝ HỮU

2.1. Nguyên bản 

寄友                                     
半生世路嘆屯邅    
萬事惟應付老天    
寸舌但存空自信    
一寒如故亦堪憐    
光陰焂忽時難再     
客舍凄涼夜似年     
十載讀書貧到骨     
盤惟苜蓿坐無氈。 
阮廌                                   

2.2. Phiên âm 

KÝ HỮU 
Bình sinh thế lộ thán truân chiên
Vạn sự duy ưng phó lão thiên
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín
Nhất hàn như cố diệc kham liên
Quang âm thúc hốt thời nan tái
Khách xá thê lương dạ tự niên
Thập tải độc thư bần đáo cốt
Bàn duy mục túc, toạ vô chiên
NGUYỄN TRÃI 

2.3. Dịch nghĩa 

Bình sinh đường đời nhiều vất vả quá thể
Vạn việc chỉ nên phó cho trời già
Tấc lưỡi hãy còn, tưởng cũng tự tin được
Cứ một cảnh nghèo như cũ thật đáng thương
Ngày tháng (sáng tối) đi qua vùn vụt khó mà trở lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như cả một năm
Mười năm đọc sách (học hành) mà nghèo đến tận xương
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu. 

2.4. Dịch thơ 

GỬI BẠN

Sau loạn người rơi tựa lá hồng
Chân trời tin nhạn hút vời trông
Ba canh đắm mộng hồn quê dõi
Trùng dế kêu vang bốn vách lồng
Đỗ lão tâm tình hương Vị Bắc
Quản Ninh di trú khách Liêu Đông
Việt Trung ước được lời thăm hỏi
Lời đáp sinh nhai quyện cỏ bồng.

Mai Thắng  
190930

------------------------ 

 Bài 3. LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC

3.1. Nguyên bản 

亂後到崑山感作      
一別家山恰十年      
歸來松菊半翛然      
林泉有約那堪負      
塵土低頭只自憐      
鄉里纜過如夢到      
干戈未息幸身全      
何時結屋雲峰下      
汲澗烹茶枕石眠      
阮廌                                  

3.2. Phiên âm

LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên
Hương lý tài qua như mộng đáo
Can qua vị tức hạnh thân tuyền
Hà thời kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên
NGUYỄN TRÃI 

3.3. Dịch nghĩa 

Sau loạn về Côn Sơn cảm tác
Rời vùng quê miền núi nầy thoắt cái đã mười năm rồi.
Nay về thăm lại tùng, cúc đã tiêu điều quá nửa.
Đã có hẹn ới dòng suối nơi đây thì không nở phụ ước,
Cúi đầu nhìn đất quê mà thương thân mình lưu lạc,
Làng xóm thoáng qua như trong giấc mộng,
Chiến tranh còn dai dẵng, may mà thân được bảo toàn,
Bao giờ mới dựng một mái tranh dưới mây gió nầy,
Lấy nước suối pha trà và gối đầu lên tảng đá mà ngủ.

3.4. Dịch thơ

SAU LOẠN VỀ CÔN SƠN

Thắm thoắt mười năm biệt cố hương
Cúc tùng quá nửa nhuốm thê lương
Núi rừng hẹn ước ngày quay lại
Mảnh đất đê đầu mối cảm thương
Thôn xóm vờn qua như giấc mộng
Chiến tranh còn giữ tấm thân vương
Bao giờ kết thúc trời mây tạnh
Gối đá nằm ru ngủ dưới sương.

Mai Thắng  
141114

----------------------

 Bài 4. QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC

4.1. Nguyên bản 

归昆山舟中作        
十年飄轉嘆蓬萍, 
歸思搖搖日似旌。 
幾托夢魂尋故里, 
空將血淚洗先塋。 
兵餘斤斧嗟難禁, 
客裡江山只此情。 
鬱鬱寸懷無奈處, 
船窗推枕到天明。 
阮廌                                  

4.2. Phiên âm 

QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình
Quy tứ dao dao nhật tự tinh
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý
Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh
Binh dư cân phủ ta nan cấm
Khách lý giang sơn chỉ thử tình
Uất uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
NGUYỄN TRÃI

4.3. Dịch nghĩa 

Mười năm phiêu dạt như cỏ bồng cánh bèo
Ý muốn trở về ngày nào cũng nao nao (như cờ dựng trong trí)
Bao lần gửi hồn trong mộng về làng cũ
Mang bằng tưởng tượng huyết lệ về tẩy mộ tổ tiên
Than ôi, sau loạn lạc làm sao cấm cản được vụ búa rìu?
Trong cảnh khách này chỉ có mối tình ấy với giang sơn
Tấc lòng u uất thật khó xử
Song cửa thuyền lay gối mãi đến sáng trời.

* Côn Sơn: Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.

4.4. Dịch thơ

THUYỀN VỀ CÔN SƠN

Mười năm phiêu dạt cảnh bồng bềnh
Kiếp sống giang hồ phận nổi nênh
Gửi mộng hồn về quê thất tán
Gìn tiên mộ rưới lệ trôi dềnh
Kiếm đao sau loạn còn rơi rớt
Đất khách trong thời cũng bấp bênh
U uất lòng đau canh cánh mãi
Khoan thuyền tỏ rạng ánh bình minh.

Mai Thắng  
191007

--------------------- 

 Bài 5. LONG ĐẠI NHAM

5.1. Nguyên bản 


龍岱岩   
去年虎穴我曾窺, 
龍岱今觀石窟奇。 
鰲負出山山有洞, 
鯨遊塞海海為池。 
壼中日月天難志, 
世上英雄此一時。 
黎范風流嗟漸遠, 
青苔半蝕璧間詩。 
阮廌                                  

5.2. Phiên âm 

LONG ĐẠI NHAM
Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy
Long Đại kim quan thạch quật kỳ
Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động
Kình du tắc hải, hải vi trì
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão
Thế thượng anh hùng thử nhất thì
Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn
Thanh đài bán thực bích gian thi.
NGUYỄN TRÃI 

5.3. Dịch nghĩa 

Năm trước ta đã từng xem hang cọp
Nay lại đến xem động Long Đại, một động núi lạ
Con ngao đội núi lên thành động
Cá kình bơi lấp biển thành ao
Trong bầu nhật nguyệt trời khó già
Anh hùng trên đời thì chỉ là một thuở
Nếp sống phong lưu của hai họ Lê và Phạm than ôi cũng xa dần
Thơ trên vách đá cũng đã bị rêu xanh gấm nhậm rồi.

5.4. Dịch thơ

NÚI LONG ĐẠI

Hổ huyệt năm xưa đã ngó vào
Nay nhìn Long Đại dáng kỳ cao
Ngao nâng phiến tảng, non thành động
Kình quẫy khơi trùng, biển hóa ao
Nhật nguyệt trong bầu vơ lão vất
Anh hùng giữa thế được thời khao
Tài hoa Lê Phạm dần phai nhãng
Tựa nửa bài thơ vách đá bào.

Mai Thắng 
191008

11 tháng 6 2019

C. Thơ Nguyễn Trãi - Phần B

<C.032><Dịch Việt thi>
 
Thơ NGUYỄN TRÃI - Phần B: THƠ SAU KHI THÀNH DANH 
(Thời Hậu Lê - Việt Nam) 
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC



★ Bài 1: THƯỢNG NGUYÊN HỖ GIÁ CHU TRUNG TÁC
 

1.1. Nguyên bản 

上元扈駕舟中作          
沿江千里燭光紅, 
彩鷁乘風跨浪篷。 
十丈樓臺消蜃氣, 
三更鼓角壯軍容。 
滄波月浸玉千頃, 
仙杖雲趨天九重。 
午夜篷窗清夢覺, 
猶疑長樂隔花鐘。 
阮廌

1.2. Phiên âm 

THƯỢNG NGUYÊN HỖ GIÁ CHU TRUNG TÁC
Duyên giang thiên lý chúc quang hồng
Thái Nghịch thừa phong khóa lãng bồng
Thập trượng lâu đài tiêu thận khí
Tam canh cổ giác tráng quân dung
Thương ba nguyệt tẩm ngọc thiên khoảnh
Tiên trượng vân xu thiên cửu trùng
Ngọ dạ bồng song thanh mộng giác
Do nghi Trường Lạc cách hoa chung.
NGUYỄN TRÃI

1.3. Chú Thích :

- Thượng Nguyên 上元 : là Rằm tháng giêng, là Tiết Nguyên Tiêu.
- hỗ giá 扈駕 : HỖ là theo sau, hộ vệ; HỖ GIÁ : Đi theo hầu thuyền vua.
- Duyên Giang 沿江 : là Dọc theo bờ sông.
- Thái Nghịch 彩鷁 : là tên đặt cho một chiếc thuyền vua có vẽ hình con chim Nghịch đón gió với màu sắc rực rỡ.
- Thận khí 蜃氣 là Ảo ảnh. Ánh sáng rọi xuống biển, phản chiếu ngược lên trên không thành muôn hình vạn trạng, như lâu đài, chợ búa ... Ngày xưa cho là vì có con sò thần biến hóa ra cảnh thần tiên, nên gọi là “Thận Lâu Hải Thị 蜃樓海市 là Lầu Sò Chợ Biển" để chỉ các ảo ảnh về cảnh thần tiên trên biển chỉ là hư ảo không có thật.
- Cổ Giác 鼓角 : Cổ là Trống; Giác là Sừng. Nên CỔ GIÁC là Tiếng trống tiếng tù-và thổi trong quân lúc gác đêm.
- Thương Ba 滄波 : là Sóng xanh, xuất xứ từ THƯƠNG HẢI 滄海 là Biển xanh.
- Tiên Trượng 仙杖 : là Gậy tiên. Gậy tre của tiên chống, có thể hóa thành rồng cởi để bay lên mây xanh.
- Cửu Trùng 九重 : là Chín tầng. Theo truyền thuyết cổ đại của Trung Hoa thì Trời có 9 tầng, nên gọi là Cửu Trùng Thiên 九重天. Vua là Thiên Tử là con trời, nên cũng gọi vua là Đấng Cửu Trùng; Tiếng Nôm ta gọi là Chín Tầng, như mở đầu Chinh Phụ Ngâm Khúc có câu : CHÍN TẦNG gươm báu trao tay, / Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
- Ngọ Dạ 午夜 : là Nửa đêm. Phiếm chỉ Đêm khuya.
- Trường Lạc 長樂 : là Cung Trường Lạc. Một cung điện của nhà Hán xưa ở trong thành Trường An (thuộc tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc ngày nay), cùng với cung Vị Ương 未央 là nơi xưa Hán Cao Tổ hay đón tiếp quần thần và chư hầu.

1.4. Dịch nghĩa

        Cảm Tác Ngày Rằm Thượng Nguyên Hỗ Giá trong Thuyền
        Cả ngàn dặm dọc theo bờ sông đều rực sáng bởi ánh đuốc sáng rực. 
        Chiếc thuyền có chạm hình chim Thái Nghịch rực rỡ đang cởi gió lướt đi trên sóng. 
        Lầu thuyền cao mười trượng lấp lánh hư ảo như cảnh thần tiên trên biển, và tiếng trống giục hòa lẫn tiếng tù-và rít lên lúc canh ba càng làm tăng thêm vẻ hùng tráng của quân binh. 
        Thuyền lướt trên sóng xanh với ánh trăng lắp loáng chìm trong đáy nước như muôn ngàn mảnh ngọc vỡ ra; 
        những cây cột buồm như những cây gậy tiên như vươn cao và lướt trên mây lên tận chín từng trời. 
        Ta chợt tỉnh giấc mộng thanh thản bên song thuyền lúc giữa đêm khuya, mà còn ngờ là đang nghe tiếng chuông hoa đang gọi chầu nơi cung Trường Lạc.
        Quả là cảnh hỗ giá sau thanh bình chiến thắng trở về, với sĩ khí lên cao, đèn hoa rực rỡ trong đêm rằm Nguyên Tiêu sau Tết Nguyên Đán trên thuyền của vua đi. 
        Nguyễn Trãi đã nằm trong khoang thuyền theo sau thuyền vua, nhìn ra trước mũi thuyền có chạm trổ hình chim nghịch với màu sắc rực rỡ như đang lướt đi trên sóng và các cột buồm như những chiếc gậy tiên đang chọc thẳng lên chín từng mây. Cảnh náo nhiệt với các đuốc hoa rực rỡ dọc theo bờ sông, cảnh hùng tráng với tiếng tù-và tiếng trống giục trên thuyền của quân binh đã vẽ nên một cảnh thanh bình thịnh vượng của một đất nước độc lập tự chủ sau những năm trầm luân trong đô hộ.


* Diễn Nôm 

 Thượng Nguyên Hỗ Giá Chu Trung Tác

Ngàn dặm ven sông đuốc rực hồng,
Thuyên rồng cởi gió lướt trên sông.
Lâu thuyền mười trượng mờ tiên cảnh,
Còi trống ba quân vẳng khí hùng.
Trăng vỡ ngàn sao nhòa đáy nước,
Gậy tiên chín lớp vượt không trung.
Nửa đêm tỉnh mộng bên song cỏ.
Còn ngỡ chuông hoa Trường Lạc cung !

        Lục bát : 
Ven sông ngàn dặm đuốc hồng,
Mũi thuyền cởi gió lướt dòng sóng xanh.
Lâu thuyền cao xóa khí lành,
Trống còi giục giã đêm thanh hào hùng.
Trăng chìm đáy nước mông lung,
Gậy tiên vươn thẳng chín từng mây cao.
Nửa đêm tỉnh giấc song đào,
Còn ngờ Trường Lạc hôm nao gọi chầu.
Đỗ Chiêu Đức

--------------------- 

★ Bài 2: ĐỀ KIẾM


1.1. Nguyên bản 

題劍                              
藍山自昔臥神龍, 
世事懸知在掌中。 
大任有歸天啓聖, 
昌期一遇虎生風。 
國讎洗盡千年恥, 
金匱終藏萬世功。 
整頓乾坤從此了, 
世間那更數雄英。 
阮廌

1.2. Phiên âm 

ĐỀ KIẾM
Lam Sơn tự tích ngọa thần long
Thế sự huyền tri tại chưởng trung
Đại nhậm hữu quy thiên khải thánh
Xương kỳ nhất ngộ hổ sanh phong
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ
Kim quỹ chung tàng vạn thế công
Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu
Thế gian na cánh sổ anh hùng.
NGUYỄN TRÃI


2.3. Chú Thích 

        - KIẾM ở đây là Thuận Thiên kiếm 順天劍 hay kiếm thần Thuận Thiên là thanh kiếm huyền thoại của vua Lê Lợi, người đã đem lại độc lập cho Việt Nam từ ách cai trị của nhà Minh phương Bắc.
        - LAM SƠN 藍山 : Tên núi ở huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa ngày nay), năm 1418 (Mậu Tuất), Bình Định Vương Lê Lợi đã khởi nghĩa tại đây.
        - NGỌA THẦN LONG 臥神龍 : "Ngoạ long" là con rồng nằm, thường dùng để chỉ Gia Cát Khổng Minh thời Tam Quốc (Trung Hoa) lúc còn ở ẩn tại Ngoạ Long Cương (huyện Nam Dương, tỉnh Hà Nam). Trong bài này, Nguyễn Trãi dùng "Ngoạ Thần Long" để chỉ Lê Lợi khi còn ở núi rừng Lam Sơn.
        - THIÊN KHẢI THÁNH 天啓聖 : Trời bảo cho thánh nhân (tức Lê Lợi) biết. Chỉ việc Lê Lợi được trời cho kiếm thần trên có chữ "Thuận Thiên". Năm 1428 (Mậu Thân), Lê Lợi lên ngôi vua, lấy hiệu là Thuận Thiên.
        - HỔ SANH PHONG 虎生風 : Cọp sinh ra gió. Lấy ý ở quẻ Càn 乾 trong kinh Dịch 易: "Vân tòng long, phong tòng hổ" 雲從龍,風從虎 (Mây theo rồng, gió theo cọp).
        - KIM QŨY 金匱 : Do chữ "Kim quỹ thạch thất" 金匱石室 là rương làm bằng vàng, nhà xây bằng đá để cất giữ sử sách. Vua Cao Tổ nhà Hán dùng tráp bằng vàng cất giữ những biểu dương ghi chép công lao của các công thần.
        - CÀN KHÔN 乾坤 : chỉ Âm dương Trời đất, mượn để chỉ cuộc đời nầy. 

2.4. Dịch nghĩa 

 Đề Lưỡi Kiếm Thần của Lê Lợi
 Đất Lam Sơn từ xưa vốn là nơi đã nằm sẵn một con rồng thần. 
 Chuyện đời đã biết rõ rành rành như trong lòng bàn tay. 
Khi trách nhiệm lớn có người gởi gắm thì trời báo cho bậc thánh nhân biết trước, 
Và khi thời cơ tốt đã đến thì như chúa sơn lâm được sự hỗ trợ của gió vậy. 
Quốc thù cũng đã được rửa sạch cái nhục của cả ngàn năm, và rương vàng cũng cất giữ lại công lao muôn đời của các bậc công thần. 
Từ nay đã kết thúc việc chỉnh đốn lại càn khôn trời đất của ta, thử nghĩ trên đời nầy có được mấy người anh hùng như thế chứ ?! 
Ý là Đề Gươm, nhưng thật ra là để ca ngợi sự kiên nhẫn và chiến tích vẻ vang của Bình Định Vương Lê Lợi. 
Được kiếm Thuận Thiên là thuận theo ý trời, như hùm gặp gió, như hổ thêm vây rửa sạch cái nhục ngàn năm mà ổn định lại trật tự xã hội của dân Nam, thành tích nầy không phải anh hùng nào cũng làm được !

        Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn thời Tiền Chiến trong bài thơ Nước Tôi cũng đã lấp lửng mà ca ngợi bằng hai câu thơ :
    Rùa thiêng nổi trước thuyền rồng,
    Trên Hồ Hoàn Kiếm anh hùng là ai ?


2.5. Diễn Nôm  

ĐỀ KIẾM

Lam Sơn xưa vốn đất tiềm long,
Thế sự trong tay đã tỏ lòng.
Đại cuộc chuyển xoay trời ban thánh,
Thuận Thiên kiếm báu hổ nương phong.
Báo xong thù nước ngàn năm nhục,
Ghi dấu hộp vàng muôn thuở công.
Chỉnh đốn đất trời nay trọn vẹn,
Anh hùng mấy kẻ được như ông ?!

Lục bát :

Lam Sơn xưa đất ẩn rồng,
Chuyện đời đã rõ như lòng bàn tay.
Thế trời tỏ rõ thánh hay,
Thuận Thiên thần kiếm thêm vây cho hùm.
Ngàn năm thù nước báo xong,
Rương vàng nhà đá ghi công muôn đời.
Đất trời chỉnh đốn xong rồi,
Anh hùng dưới thế mấy người như ông ?!

Đỗ Chiêu Đức

----------------------------------------------

★ Bài 3: ĐỀ BÁ NHA CỔ CẦM ĐỒ


3.1. Nguyên bản 

題伯牙鼓琴圖              

鐘期不作鑄金難, 
獨抱瑤琴對月彈。 
靜夜碧霄涼似水, 
一聲鶴唳九皋寒。
阮廌 

3.2. Phiên âm 

ĐỀ BÁ NHA CỔ CẦM ĐỒ
Chung Kỳ bất tác chú kim nan
Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn
Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thủy
Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn !
NGUYỄN TRÃI


3.3. Chú Thích

        - BÁ NHA 伯牙 : hay Sở Bá Nha, họ Du tên Thụy, người nước Sở nhưng làm quan Thượng Đại Phu nước Tấn. Ông là một khách phong lưu, có ngón đàn thất huyền cầm nổi tiếng đương thời. Tương truyền một năm nọ, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua nước Sở. Trên đường trở về đến sông Hán, gặp đêm trung thu trăng thanh gió mát, ông lệnh cho quân lính dừng thuyền uống rượu thưởng nguyệt. Cao hứng mang đàn ra gảy nhưng bản đàn chưa dứt đã bị đứt dây. Bá Nha ngờ có người biết nghe đàn, định truyền quân lên bờ đi tìm thì vừa hay có tiếng chàng trai nói vọng xuống, rằng mình là một tiều phu, thấy khúc đàn hay quá nên dừng chân nghe. Bá Nha có ý nghi hoặc, nhưng khi chàng trai đối đáp trôi chảy, thậm chí biết rõ bản đàn mà mình vừa gảy thì ông không còn mảy may ngờ vực nữa, bèn mời xuống thuyền đàm đạo. Trên thuyền, Bá Nha gảy khúc nhạc Cao sơn Lưu thủy, người tiều phu rung cảm sâu sắc, cao đàm khoát luận, khiến Bá Nha khâm phục hết mực.
        Chàng trai trẻ đó chính là Chung Tử Kỳ 鍾子期, họ Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn gần núi Mã Yên cửa sông Hán Giang, là một danh sĩ ẩn dật, đốn củi sớm tối phụng dưỡng mẹ cha già yếu. Được người tri âm, Bá Nha có ý mời Tử Kỳ cùng mình về kinh tiến cử cho Tấn vương để cùng vui hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng Tử Kỳ thoái thác vì chữ hiếu. Bá Nha đành phải hẹn Tử Kỳ trung thu năm sau sẽ gặp lại ở chốn nầy. Nhưng khi Bá Nha trở lại bến sông xưa, thì Tử Kỳ đã mất trong một cơn bạo bệnh. Trước khi chết Tử Kỳ còn trăng trối phải chôn chàng nơi bến sông Hán Dương, cạnh núi Mã Yên, để giữ lời hẹn với Bá Nha. Bá Nha tìm đến mộ Tử Kỳ, bày đồ tế lễ, khóc than sầu thảm, gảy một bản nhạc ai điếu. Đàn xong, ông đập đàn vào đá, thề trọn đời không đàn nữa vì biết mình từ nay vĩnh viễn không còn bạn tri âm nữa.
        - CỔ CẦM 鼓琴 : CỔ danh từ là Cái Trống; động từ là Đánh Trống. nên CỔ CẦM ở đây có nghĩa là Đánh Đàn, Gãy đàn.
        - CHÚ KIM 鑄金 : là Đúc bằng vàng. CHÚ KIM NAN là Khó mà đúc được bằng vàng.
        - BÍCH TIÊU 碧霄 : là Bầu trời xanh biếc.
        - CỬU CAO 九皋 : là chín cái đầm nước. Kinh Thi chương Hạc minh có câu: “Hạc minh vu cửu cao, thanh văn vu dã” 鶴鳴于九皋,聲聞于野: Chim hạc kêu ở chỗ có chín đầm nước vang khắp đồng nội. Số 9 ở đây là phiếm chỉ, chỉ rất nhiều đầm nước ở ngoài đồng nội.

3.4. Nghĩa Bài Thơ 

Đề Bức Tranh Bá Nha Gãy Đàn
Không làm được Chung Kỳ vì đúc tượng vàng Chung Kỳ khó.(Ý muốn nói : Chung Tử Kỳ là người tri âm qúy hiếm, rất khó tìm thấy trên đời, kể cả đúc bằng kim loại), 
Nên mới một mình ôm cây dao cầm mà đàn dưới ánh trăng. 
 Đêm thanh vắng, bầu trời xanh biếc trong mát như nước. 
 Một tiếng chim hạc kêu làm lạnh cả chín đầm nước ngoài đồng nội.


3.5. Diễn Nôm 

ĐỀ TRANH BÁ NHA GÃY ĐÀN

Chung Kỳ khó gặp đúc nên vàng,
Đơn độc dưới trăng lạnh gãy đàn.
Đêm mát trời xanh trong tợ nước,
Hạc kêu một tiếng chím đầm vang !

Lục bát :
Tri âm khó đúc hơn vàng,
Dưới trăng một bóng ôm đàn gãy suông.
Đêm thanh trời mát tợ gương,
Hạc kêu một tiếng lạnh vương chín đầm !

Đỗ Chiêu Đức

-----------------------

★ Bài 4: QUÁ THẦN PHÙ HẢI KHẨU



4.1. Nguyên bản 

過神符海口   
神符海口夜中過, 
奈此風清月白何。 
夾岸千峰排玉筍, 
中流一水走青蛇。 
江山如昨英雄逝, 
天地無情事變多。 
胡越一家今幸睹, 
四溟從此息鯨波。 
阮廌 

4.2. Phiên âm 

QUÁ THẦN PHÙ HẢI KHẨU
Thần Phù hải khẩu dạ trung qua
Nại thử phong thanh nguyệt bạch hà
Giáp ngạn thiên phong bài ngọc duẩn
Trung lưu nhất thủy tẩu thanh xà
Giang sơn như tạc anh hùng thệ
Thiên địa vô tình sự biến đa
Hồ Việt nhất gia kim hạnh đổ
Tứ minh tòng thử tức kình ba.
NGUYỄN TRÃI

4.3. Chú Thích 

        - THẦN PHÙ HẢI KHẨU 神符海口 : là Cửa biển Thần Phù. Theo Nam Ông Mộng Lục 南翁夢錄, Vua Lý Thái Tông mang quân Nam tiến để đánh dẹp Chiêm Thành, đến cửa biển này gặp gió to sóng dữ, không đi được; may nhờ một đạo sĩ có phép thuật cao cường dẹp yên sóng dữ. Khi ban sự trở về, đạo sĩ mất ở dọc đường. Vua cho lập đền thờ ở cửa biển, phong hiệu là "Áp Lãng Chân Nhân 壓浪真人" (Chân nhân dẹp yên được sóng dữ) và đặt tên nơi đây là cửa biển Thần Phù.
        - NẠI... HÀ 奈...何 : Phải làm sao đây ? Biết nói sao đây ?!
        - PHONG THANH NGUYỆT BẠCH 風清月白 : Ta nói là Gió mát trăng thanh.
        - GIÁP NGẠN 夾岸 : Hai bên bờ.
        - NGỌC DUẨN 玉筍 : là Măng non mới mọc.
        - GIANG SƠN NHƯ TẠC 江山如昨 : Núi sông như mới ngày hôm qua.
        - HỒ VIỆT 胡越 : Tên các nước thuộc Trung Quốc. Hồ chỉ các nước nhỏ ở phía bắc, Việt chỉ các nước nhỏ ở phía nam, nên HỒ VIỆT ý chỉ hai nơi rất xa nhau. Tác giả ngụ ý khi hoà hợp thì xa cũng hoá gần.
        - TỨ MINH 四溟 : là Tứ Phương Chi Hải 四方之海, là Biển của bốn phương; ta nói là Bốn Bể, có nghĩa là khắp nơi khắp chốn.
        - KÌNH BA 鯨波 : Sóng do con cá kình lội mà tạo nên, ở đây mượn ý để chỉ các chiến thuyền lướt sóng như cá kình cá voi; và Chiến Thuyền Lướt Sóng hàm ý chỉ chiến tranh.


Ảnh Non nước Thần Phù

4.4. Nghĩa Bài Thơ 

QUA CỬA BIỂN THẦN PHÙ

Trong đêm đi ngang qua cửa biển Thần Phù,
Trong cảnh gió mát trăng thanh nầy, ôi, phải biết nói sao đây ?!
Giáp hai bên bờ là hàng ngàn ngọn núi vươn lên như những búp măng mới mọc,
Và ở giữa là một dòng chảy lấp loáng dưới ánh trăng như một con rắn xanh.
Sông núi vẫn như ngày hôm qua, nhưng những người anh hùng thì đã khuất.
Trời đất vô tình trước sự biến hóa đổi thay.
May mắn là đã nhìn thấy được hôm nay Hồ Việt đã chung lại một nhà,
Bốn biển từ đây cũng đã chấm dứt sóng kình (chấm dứt chuyên can qua).

4.5. Diễn Nôm 

QUA CỬA BIỂN THẦN PHÙ

Thần Phù cửa biển giữa đêm qua,
Gió mát trăng thanh biết phải là ?
Núi đá hai bờ như duẩn ngọc,
Nước xanh một dãi tựa thanh xà.
Giang sơn còn đó anh hùng mất,
Trời đất vô tình thế sự đa.
Hồ Việt nay đà chung một mái,
Thanh bình bốn biển hết can qua !

        Lục bát :

Thần Phù cửa biển trong đêm,
Nói sao gió mát êm đềm trăng thanh.
Đôi bờ ngàn núi như tranh,
Giữa trôi lấp lánh rắn xanh một dòng.
Giang sơn đó, đâu anh hùng ?
Sự đời biến đổi vô chừng thoáng qua.
Nay mừng Hồ Việt một nhà,
Từ nay chinh chiến can qua chẳng còn !

Đỗ Chiêu Đức

-----------------------

★ Bài 5: DỤC THÚY SƠN


5.1. Nguyên bản 

浴翠山                  
海口有仙山, 
年前屢往還。 
蓮花浮水上, 
仙景墜人間。 
塔影簪青玉, 
波光鏡翠鬟。 
有懷張少保, 
碑刻蘚花斑。 
阮廌 

5.2. Phiên âm 

DỤC THÚY SƠN
Hải khẩu hữu tiên san
Niên tiền lũ vãn hoàn
Liên hoa phù thủy thượng
Tiên cảnh trụy nhân gian
Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo
Bi khắc tiễn hoa ban.
NGUYỄN TRÃI

5.3. Chú Thích

        - DỤC THÚY SAN 浴翠山 : Dục Thúy là Tắm trong màu xanh biếc. Núi Dục Thuý, tức núi Non Nước ở Ninh Bình, tên Dục Thuý là do Trương Hán Siêu đặt, vì núi soi bóng xuống cửa biển với một màu xanh biếc.
        - LŨ VÃN HOÀN 屢往還 : là Mấy lượt đi về. Đi đi về về mấy lượt.
        - TRỤY NHÂN GIAN 墜人間 : là Rơi xuống trần gian.
        - TRƯƠNG THIẾU BẢO 張少保 : Tức Trương Hán Siêu đời Trần, được phong hàm Thiếu Bảo, sau khi mất được thăng Thái Bảo, hàm chánh nhất phẩm. Trương Hán Siêu tự là Thăng Phủ, quê làng Phúc Thành, huyện An Ninh (sau đổi là Phúc Âm, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình, làm quan đời Trần, chức Tham Tri Chính Sự. Về già ở ẩn tại núi Dục Thuý.
        - BI 碑 : là Bia. TIỄN 蘚 : là Rong rêu.

5.4. Nghĩa bài Thơ  

NÚI DỤC THÚY
Trước cửa biển có núi tiên,
năm trước đây ta đã mấy lượt đi về nơi nầy.
Toà núi như là một đóa hoa sen nổi trên mặt nước
như là cảnh tiên rơi xuống nhân gian nầy vậy.
Bóng tháp in trên nước như trâm bích ngọc
và các gợn sóng sáng lấp lánh như gương soi các lọn tóc xanh.
Trước cảnh đẹp nầy, làm cho ta chợt nhớ đến Trương Thiếu Bảo,
nhưng tấm bia đá khắc về ông đã lốm đốm rêu xanh cả rồi !


5.5. Diễn Nôm 

DỤC THÚY SAN

Cửa biển có tiên san,
Năm qua vẫn khứ hoàn.
Hoa sen trên mặt nước,
Tiên cảnh lạc nhân gian.
Bóng tháp như trâm ngọc,
Sóng xanh tựa tóc nàng.
Nhớ ngài Trương Thiếu Bảo,
Bia khắc cỏ rêu lan.

* Diễn lục bát :

Núi tiên cửa biển cận kề,
Năm qua mấy lượt đi về nơi đây.
Như sen nổi mặt nước đầy,
Bồng Lai tiên cảnh đọa đày nhân gian.
Tháp in đáy nước trâm vàng,
Sóng vờn tựa kính soi làn tóc mây.
Nhớ Trương Thiếu Bảo nơi nầy,
Rêu xanh lốm đốn phủ đầy thạch bia !

Đỗ Chiêu Đức