Nhãn

07 tháng 3 2019

C. Đồng Tước và Xích Bích

<C.020><Điển tích văn học> 

Đề tài: ĐỒNG TƯỚC & XÍCH BÍCH
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC 

------------------------ 

 Bài 1: ĐỒNG TƯỚC 



    Trộm nghe thơm nức hương lân,
    Một nền ĐỒNG TƯỚC khóa xuân hai Kiều.

        Nền Đồng Tước là Đồng Tước Đài 銅雀台, toà lâu đài được xây dựng vào năm Kiến An thứ 15 ( 210 ) theo ước vọng của Tào Tháo : Một là thống nhất thiên hạ dựng nên đế nghiệp; hai là " khóa xuân " hai nàng Kiều trong đài Đồng Tước để vui hưởng tuổi già ! Hai nàng Kiều ở đây là Đại Kiều 大喬 và Tiểu Kiểu 小喬, hai người đẹp nổi tiếng của đất Giang Đông, con gái của Kiều Công 喬公; Đại Kiều là vợ của Tôn Sách, chúa Đông Ngô đã mất. Tiểu Kiều là vợ của Chu Du, Đô Đốc của Đông Ngô, đang nắm binh quyền lúc bấy giờ.

        Khi bình định xong Viên Thiệu ở phương bắc, Tào Tháo thừa thắng kéo hơn tám mươi vạn binh xuôi nam uy hiếp Kinh Châu và Đông Ngô. Lúc bấy giờ Lưu Bị thua ở Tân Dã, chạy về đóng binh ở Giang Hạ. Chúa Kinh Châu là Lưu Biểu lại chết, con là Lưu Tông nghe theo lời phe chủ hàng Thái Mạo đầu hàng Tào Tháo. Lưu Bị vì đã mất đi phần bắc bộ Kinh Châu, đành cố thủ nơi Giang Hạ để chống cự lại quân Tào, rồi phái Khổng Minh Gia Cát Lượng đến Đông Ngô thuyết phục Tôn Quyền cùng liên minh kháng Tào.

        Lúc bấy giờ Đô Đốc tam quân của Đông Ngô là Chu Du đang còn do dự chưa quyết, nên Khổng Minh mới dùng kế khích tướng, làm như không biết Tiểu Kiều là vợ của Chu Du, mới bảo Chu là : " Tào Tháo cho xây Đồng Tước Đài là để khi đánh tan quân Đông Ngô rồi thì bắt hai người đẹp nổi tiếng của Giang Đông là Đại Kiều và Tiểu Kiều về khóa xuân trong đài Đồng Tước để vui hưởng tuổi già. Nay nếu Đô Đốc sợ hao binh tổn tướng không dám đánh, thì cứ bắt hai nàng Kiều đem dâng cho Tào Tháo. Giang Đông chỉ mất có hai nàng Kiều mà tránh khỏi chiến tranh và chức Đô Đốc của tướng quân cũng sẽ vững như bàn thạch !". Chu Du nghe xong, trong lòng đà nổi giận, nhưng vẫn bình tĩnh hỏi lại rằng : " Có chi làm bằng ?!".

        Khổng Minh bèn cười mà đáp: "Có chứ !", bèn đọc lại hai câu trong bài phú Đồng Tước Đài của Tào Thực ( là con trai thứ của Tào Tháo rất giỏi văn thơ ) đã làm theo lệnh của Tào Tháo khi Đồng Tước Đài vừa xây xong là :

    攬二喬于東南兮, Lãm nhị Kiều vu đông nam hề,
    樂朝夕之與共。     Lạc triêu tịch chi dữ cộng,
        Có nghĩa :
    Ôm ấp hai nàng Kiều ở phía đông nam nầy...
    Cùng nhau mà vui vầy sớm tối.


        Chu Du nghe xong cả giận, rút gươm chém đứt một gốc bàn, mắng rằng :" Lão tặc Tào Tháo, ta quyết sẽ không đội trời chung với ngươi ! Từ rày về sau ai còn bàn việc hàng Tào, thì hãy xem gốc bàn nầy mà làm gương ". Khổng Minh làm bộ kinh ngạc hỏi :" Chỉ là 2 nàng Kiều thôi, sao Đô Đốc lại giận dữ thế ?!" Lỗ Túc đáp rằng :" Tại quân sư không hiểu thôi, Tiểu Kiều chính là Đô Đốc phu nhân đó".

        Từ đó về sau, quân của Lưu Bị và Đông Ngô liên kết để chống lại quân của Tào Tháo. Vì quân Tào Tháo ở phương bắc, quen với đánh bộ, lại là quân ô họp đầu hàng của các lộ quân khác, nên tuy nhiều mà không tinh, không quen thủy tánh như quân của Giang Đông, lại bị Khổng Minh cho người hiến kế liên kết các chiến thuyền lại với nhau cho dễ đốt. Khổng Minh lại thừa đêm có nhiều sương mù, giả vờ tấn công thủy dinh của Tào Tháo để gạt lấy hết tên bằng các thuyền cỏ. Tất cả đều chuẩn bị xong xuôi. Chu Du rất đắc ý đứng nhìn thủy quân thiện chiến của mình ở bến sông, chợt một lá quân kỳ bay phất vào mặt, Chu Du như tỉnh ngộ hét to một tiếng, mồm hộc máu tươi, nằm luôn ở giường bệnh, các thái y vội vàng chạy chửa thuốc thang nhưng vẫn không khỏi bệnh, cứ nằm mà thở ngắn than dài.

        Khi mưu sĩ Lổ Túc đến báo tin, thì Khổng Minh cười rằng :"Bệnh của Đô Đốc ta có thể chửa được !". Bèn đến thăm mạch và kê một toa thuốc như sau :

欲破曹公, Dục phá Tào công,
宜用火攻; Nghi dụng hỏa công;
萬事俱備, Vạn sự câu bị,
只欠東風。 Chỉ khiếm đông phong.
        Có nghĩa : 
 Muốn phá quân Tào 
Nên dùng hỏa công
Muôn việc đều sẵn
Chỉ thiếu gió đông .

        Thì ra, lúc lá quân kỳ phất vào mặt mình, Chu Du mới chợt nhớ ra rằng, bây giờ là mùa thu chỉ có gió Tây, là gió thổi ngược về thủy trại của mình, nếu dùng hoả công không khéo mình lại tự đốt mình, nên mới ói máu ưu tư là thế. Thấy Khổng Minh nói đúng tâm sự của mình, bèn bật dậy nắm lấy tay Khổng Minh mà hỏi rằng :"Chắc quân sư có kế gì giúp ta phải chăng ?". Khổng Minh cho biết là khi xưa mình có gặp được một dị nhân dạy cho phép hô phong hoán vũ, nên nói với Chu Du ở Nam Bình Sơn lập cho mình một cái Thất Tinh Đàn để tế gió, thì sẽ có thể mượn cho ba ngày gió đông. Chu Du cười mà nói rằng , chỉ cần một ngày thôi là đã có thể phá tan quân Tào Tháo rồi. Qủa nhiên Khổng Minh cầu được gió đông và cùng hợp sức với Chu Du đốt tiêu hơn tám mươi vạn quân Tào Tháo trên dòng sông Xích Bích tạo nên một chiến tích không tiền khoáng hậu về chiến thuật lấy ít thắng nhiều.

      
Vì tích trên mà hơn sáu trăm năm sau, khi làm bài thơ "Xích Bích Hoài Cổ" nhà thơ Đỗ Mục của buổi tàn Đường đã hạ hai câu thơ bất hũ:

東風不与周郎便, Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
銅雀春深鎖二喬。 Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều ! 
         Có nghĩa : 
Gió đông không giúp chàng Chu thắng, / 
Đồng Tước khóa xuân cả nhị Kiều ! 

 Câu "Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều" trong Truyện Kiều là cụ Nguyễn Du đã mượn ý của câu " Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều " để tả chị em Thúy Kiều và Thuý Vân đẹp giống như là Đại Kiều và Tiểu Kiều ở Giang Đông thời Tam Quốc vậy !

        Trở lại với đền Đồng Tước. Lâu đài nầy gồm có 3 dãy, dãy giữa là Đồng Tước Đài, lớn và đẹp nhất; phía Nam là Kim Hổ Đài và phía Bắc là Băng Tĩnh Đài. Ba dãy kiến trúc nầy mỗi dãy cách nhau khoảng 60 bước, giữa có hai cầu vượt nối liền ba dãy với nhau. Nên Tào Thực mới hạ câu :

連二橋于東西兮, Liên nhị kiều vu đông tây hề,
若長空之蝃蝀。 Nhược trường không chi đế đống.
        Có nghĩa :
Nối liền bằng hai cầu ở phía đông tây này...
Trông giống như hai cái mống trên bầu trời.
 
        Vì muốn nói khích Chu Du nên Khổng Minh đã đổi lại thành :

攬二喬于東南兮, Lãm nhị Kiều vu đông nam hề,
樂朝夕之與共。      Lạc triêu tịch chi dữ cộng,
        Có nghĩa :
Ôm ấp hai nàng Kiều ở phía đông nam nầy...
Cùng nhau mà vui vầy sớm tối.
 
Chữ NHỊ KIỀU 二橋 là 2 cây Cầu với chữ NHỊ KIỀU 二喬 là 2 nàng Kiều là chữ Đồng Âm nhưng khác nghĩa ! Qủa là miệng lưỡi của những kẻ thuyết khách lợi hại vô cùng !

        Còn về Khổng Minh Gia Cát Lượng, ông ta chỉ giỏi về Thiên văn Địa lý mà thôi, chớ không biết phép thần thông hô phong hoán vũ gì cả. Nhìn mây nhìn trời ông biết được hôm nào sẽ có sương mù, hôm nào sẽ có gió chướng, nên mới dám dùng thuyền cỏ để mượn tên của Tào Tháo và mới dám hứa cầu phong để mượn ba ngày gió đông cho Chu Du. Xây Thất Tinh Đài là để đứng trên cao, khi thấy cờ phướng đã trở gió đông bèn đi xuống ngay và đã dặn sẵn Triệu Tử Long đến đón. Đến khi gió đông thổi mạnh, Chu Du cho người đến truy sát vì ganh ghét thì Khổng Minh đã đi xa rồi.

        Điển tích "Đồng Tước" vừa liên quan đến "Nhị Kiều", vừa liên quan đến "Chu Lang" ( Chàng Chu ) và cả trận chiến nổi tiếng nhất thời Tam Quốc là "Xích Bích" nữa.

Đỗ Chiêu Đức

--------------------------

* Mời đọc tiếp bài thơ nổi tiếng của Đỗ Mục 

 BÀI 2: XÍCH BÍCH



        Một trong những bài Thất ngôn Tứ tuyệt của nhà thơ Đỗ Mục được người Việt Nam ta biết đến nhiều nhất, đó là bài Xích Bích ( Còn có tựa là Xích Bích Hoài Cổ ). Mời tất cả cùng đọc bài thơ nầy dưới đây :

赤壁                                  XÍCH BÍCH
折戟沉沙鐵未銷, Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
自將磨洗認前朝。 Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
東風不与周郎便, Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
銅雀春深鎖二喬。 Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều !
杜牧                                  Đỗ Mục 

★ Chú thích :

        XÍCH BÍCH : Trận chiến xảy ra ở tháng 10 năm Kiến An 13 đời Hán Hiến Đế ( 208 sau Công Nguyên ). Đây là trận chiến quan trọng để hình thành thế Tam Quốc. Kết thúc với liên quân Lưu Bị và Tôn Quyền đánh bại 80 vạn quân của Tào Tháo. Nhân vật nổi trội nhất của trận chiến này là vị Đô Đốc 34 tuổi văn võ song toàn, tài hoa rất mực của xứ Đông Ngô là CHU DU (còn được gọi là Châu Do).
        TIÊU : là Hao mòn, Rỉ sét.
        ĐÔNG PHONG : Gió Đông, ngọn gió chướng của tháng 10 đã giúp cho Chu Du dùng thế hỏa công đốt tiêu và đánh tan 83 vạn quân của Tào Tháo.
        CHU LANG : là Chàng Chu, tức Chu Du, Chu Công Cẩn, Đô Đốc thống lĩnh tam quân thủy bộ của Đông Ngô. Người đã điều động chỉ huy để đánh tan 83 vạn quân Tào Tháo trên sông Xích Bích.
        Ngoài tài cầm binh và thao lược, Chu Du còn là một Nghệ sĩ tài hoa lỗi lạc, giỏi cả cầm kỳ thi họa, nhất là về đàn tranh. Thường có câu : " Khúc hữu ngộ, Chu lang cố ". Có nghĩa : Nếu khúc đàn có sai sót, thì chàng Chu sẽ chiếu cố, chỉ điểm cho ngay ! Xin được nhắc lại bài Ngũ ngôn Tứ tuyệt THÍNH TRANH nổi tiếng của Lý Đoan sau đây:


聽箏  李端      THÍNH TRANH Lý Đoan  
鳴箏金粟柱 ,      Minh tranh kim túc trụ,
素手玉房前.  Tố thủ ngọc phòng tiền.
欲得周郎顧 , Dục đắc Chu Lang cố,
時時誤拂絃 .     Thời thời ngộ phất huyền.

★ Dịch thơ :

Thánh thót đùa phím ngọc
Tay ngà nắn cung mơ
Muốn chàng Chu chiếu cố
Thường để lạc phím tơ

Lục bát

Trục vàng phím ngọc vấn vương
Tay ngà nắn nót cung thương mơ màng
Muốn chàng chiếu cố ngó ngàng
Nàng thường để lạc phím đàn cung tơ !

TIỆN : là Phương tiện, là Tiện lợi.
ĐỒNG TƯỚC : là Đồng Tước Đài, là Đền Đồng Tước, do Tào Tháo xây dựng nên để thị uy và để hưởng lạc.
NHỊ KIỀU : Tức là 2 nàng KIỀU, Đại Kiều là vợ của Tôn Sách ( anh của Tôn Quyền, người dựng nên nước Đông Ngô ), Tiểu Kiều là vợ của Chu Du.

★ Diễn nghĩa:

        Ngọn giáo gãy vùi chìm trong cát, nhưng sắt vẫn không bị hao mòn rỉ sét. Ta đem nó rột rửa sach sẽ vẫn còn nhận được là đồ của triều đại trước. Ôi, nếu như gió đông không làm phương tiện cho Chu Du đánh thắng trận, thì đền Đồng Tước của Tào Tháo đã khóa xuân hai nàng Kiều của Giang Đông mất rồi !

        Đây là một bài thơ Vịnh Sử với một thủ pháp rất đặc biệt. Hai câu mở đầu xem như tầm thường, nhưng lại đầy cảm khái, ngọn kích gãy của hơn sáu trăm năm trước mặc dù đã chìm xuống đáy sông, đã chôn sâu trong cát, là vật của tiền triều, nay vẫn còn đây. Vật vô tri của chiến tích vẫn còn sờ sờ đó, mà người xưa, kẻ chiến bại cũng như người chiến thắng, nay đã còn đâu ?

        Hai câu kết của bài thơ là 2 câu được mọi người nhắc nhở nhiều nhất. Đây là 2 câu được Đỗ Mục dùng thủ pháp giả thiết phản biện. Ai cũng biết Chu Du hỏa thiêu Xích Bích thắng được trận là nhờ vào gió đông. Đỗ Mục lại bảo rằng : Nếu gió đông không tạo điều kiện cho Chu Du thắng trận, thì Tào Tháo sẽ thắng trận và 2 nàng Kiều sẽ bị khóa xuân trong đền Đồng Tước để mua vui cho Tào Tháo trong tuổi già.

        Cụ Nguyễn Du của ta cũng mượn vẻ đẹp tuyệt sắc của Nhị Kiều xứ Giang Đông để cho người đọc hình dung vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều Thuý Vân bằng câu :
    Trộm nghe thơm nức hương lân,
    Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều.

★ DIỄN NÔM :

XÍCH BÍCH
Kích gãy chìm sông sắt chửa tiêu,
Nhận ra qủa vật của tiên triều,
Đông phong chẳng giúp Chu Du thắng,
Đồng Tước khóa xuân cả nhị Kiều !

- Dịch lục bát :
Kích chìm sắt vẫn chưa tiêu,
Nhận ra vật của tiên triều bao thu.
Gió đông chẳng giúp chàng Chu,
Thì đền Đồng Tước ngàn thu khóa Kiều !
Đỗ Chiêu Đức 

06 tháng 3 2019

Tâm sự loài hoa dại

<D.466><Tình Hoa>



TÂM SỰ LOÀI HOA DẠI

Phác thảo câu vần vợi lãng phai
Đời hoa dại cảm khó chen tài
Màu lưu ý biểu tâm thường tại
Mộng giữ thân cầu cảnh thới lai
Những nguyện âm thầm vui nếm trải
Thì treo nhẫn nại đứng kiên mài
Soi luồng chuyển vận lòng ưu ái
Ước buổi chào duyên tụ nghĩa đài

Mai Thắng - 190305

★ Bài xướng của Như Thị (Lê Đăng Mành)

HOA DẠI

“Trắc bằng một vần”

Mỹ miều rồi cũng sẽ tàn phai
Cho dẫu anh thư hoặc trí tài
Đã giữ tinh thần lưu thực tại
Thì gìn cốt cách ở tương lai
Vô tư sắc nhuộm màu tê tái
Bất nhiễm hương đưa nụ miệt mài
Dạo cảnh xô bồ mà thoải mái
Bởi em hoa dại chẳng trang dài

Như Thị

Cảm Hoài

<D.465~Tuổi Lão>



CẢM HOÀI

Ngắm cảnh buông chiều lặng lẽ phai
Đường chân ráng đỏ vợi tâm hoài
Hồn xuân mệt mỏi vui là mấy
Ngõ mộng âm thầm tỏ với ai
Dỗ giấc say nồng quên khổ nạn
Chìm men tĩnh tại nhuốm bi hài
Quân bình trí não cầu an tịnh
Mặc chuỗi ưu phiền bảo đúng sai.

Mai Thắng – 190305

★ Bài xướng của Thầy Sắc Tứ Minh Thiện

CẢM HOÀI !

Hiên đời thả bước ngắm chiều phai
Nắng dọi cành sương gợi cảm hoài
Cưỡi sóng đưa người qua tịnh cảnh
Neo thuyền rước khách vượt trần ai
Trang tình chả khác chi canh mộng
Mạng sống dường như thể khúc hài
Nguyện sớm quay về nương tự tánh
Nhân lành quả ngọt chẳng đơn sai !

Sắc Tứ Minh Thiện

Tuổi Thọ Tám Mươi

<D.464~Tuổi Lão>



TUỔI THỌ TÁM MƯƠI

Thập kỷ so cùng đã tám nguyên
Ờ ha ! ắt hẳn vượt tâm nguyền
Mày râu đẹp dáng thần minh mẫn
Mắt mũi tươi màu dạ ổn yên
Sống động tình thơ tìm mỹ cảm
Hồn nhiên hạnh phúc rảo lâm tuyền
Nào tham chỉ tạo thêm nguồn hứng
Một chút vui vầy thoả mãn duyên.

Mai Thắng – 190304

★ Bài xướng của Liêu Xuyên

TÁM MƯƠI NGUYÊN

Bây giờ mình được tám mươi nguyên,
Cuộc sống thong dong thân xác yên.
Chồng vợ cái con vui cháu chắc,
Nghĩa tình hạnh phúc thắm tơ duyên.
Vần thơ ấm áp đầy thương mến,
Thi tứ hân hoan vẹn ước nguyền.
Cầu được trời cho vài tuổi nữa...
Rồi ung dung chết xuống hoàng tuyền !

Liêu Xuyên

Suy tư trước biển

<D.463~Cảnh Biển Trời>



SUY TƯ TRƯỚC BIỂN

Triều dâng sóng nhẹ vỗ êm này
Những điệu vui hờ cảm giác say
Vũ trụ vô cùng phô cổng khép
Chân trời tích hợp ẩn đường bay
Nhìn qua hận tủi đời thương khó
Cải biến buồn vương cụm nghĩa đầy
Cõi thực vòm không đùa bóng ảo
Ta thèm chuyển động ấm bàn tay.

Mai Thắng
190303

----------------------
★ Bài xướng của Cao Mỵ Nhân

TRƯỚC BIỂN

Biển sóng tràn lên nỗi nhớ này
Lệ mờ nhân ảnh, khói sương bay
Muôn sau huyễn cảm còn vương vấn
Thủa trước hoang tình mãi đắm say
Lòng ở thảo nguyên nghe gió nổi
Hồn trên đỉnh núi cuốn mây đầy
Bao nhiêu hạnh ngộ đều hư ảo,
Ấp ủ mê cuồng mất dấu tay ...

CAO MỴ NHÂN

02 tháng 3 2019

Gửi Một Lời Thơ

<D.462~Cuộc Sống>



GỬI MỘT LỜI THƠ

Đã muốn vần thơ gửi một người
Xin cùng thệ tiếng giữ lòng vơi
Gìn hương sắc cũ còn mong hẹn
Để góc đường xưa vẫn đọng lời
Mấy mảnh trăng vàng không bạc bẽo
Bao dòng chữ viết chẳng đùa chơi
Hàng cây lẳng lặng theo ngày tháng
Hẹn buổi trùng lai rỡ bóng đời.

Mai Thắng – 190301

★ Bài xướng của Loan Nguyễn

QUÊN SẦU ĐI

Tình anh vẫn đến nhẹ bên đời
Mọi thứ đau buồn bỏ lại chơi
Bản nhạc trầm tư ngồi đệm tiếng
Vần thơ lãng mạn viết trao lời
Êm làn gió nhẹ từng hôm thoảng
Đẹp mảnh trăng vàng mỗi tối vơi
Nỗi nhớ vùi trong từng nét chữ
Lời yêu chỉ muốn gởi riêng người/

NPP 28/02/2019

01 tháng 3 2019

X86. Thắm Nghĩa Tình Thơ

<D.461~Thơ Vui> 


THẮM NGHĨA TÌNH THƠ

Đã hẹn em rồi khó bỏ thơ
Đường xa thử nghiệm chút ơ thờ
Tim còn khẽ đập nuôi nguồn thở
Máu vẫn xuôi về tải điệu mơ
Dẫu biết căn phần không thể chọn
Thì mong trực giác chẳng ngây đờ
Buồn vui dấn trải cùng dân tộc
Mẫn cán se đều dệt mảnh tơ.

Mai Thắng – 190301

★ Bài xướng của Lâm Mỹ Thuận

BAO NGÀY GIÁN ĐOẠN
NĐT

Lâu rồi mãi bận bỏ nàng thơ
Bị quở thằng sao dáng thẫn thờ
Nhớ bạn bình văn chìm cõi ảo
Say vần đắm chữ thả hồn mơ
Xanh đầu chả chuộng lòng thư thái
Lỏng gối ghiền mê dạ đẫn đờ
Nhớm dậy nay ngồi ăn trả bữa
Bao ngày gián đoạn nghẽn đường tơ !

Thuận. 28/02/2019.

------------------------------------------
CÁC BÀI HOẠ TRÊN FACEBOOK
------------------------------------------

★ Bài hoạ của Nguyễn Thị Trọng

MỪNG HUYNH TRỞ LẠI

Chưa phải tằm mà thích nhả tơ.
Nghĩ suy kiếm chữ mệt lờ đờ.
Những khi chán cảnh trong đời thực.
Là lúc đưa hồn tận cõi mơ.
Lời mộc thô liều gan ứng hoạ.
Tứ cao thâm nể phục tôn thờ.
Vui mừng huynh trưởng vừa lên tiếng.
Bớt bận giải buồn ra tiếp thơ.

Nguyễn Thị Trọng
28/02/2019

★ Bài hoạ của Mỹ Bình

DUYÊN NỢ

Vì đâu lãng tử khó quên thơ ?
Ngoảnh mặt làm ngơ cố hững hờ . !
Ngăt nỗi tim còn thoi thóp thở
Nên rồi óc mãi phập phồng mơ
Xuân về lộc mới chồi xanh mở
Hạ đến cành xưa quả trĩu đờ
Hữu hảo sum vầy xao dạ nhớ
Ngôn từ trỗi dậy kéo mành tơ !

MB 2/3/2019

★ Bài hoạ của Trương Văn Luỹ

TẰM VÀ NHỆN

Lang thang lên mạng gặp bài thơ!
Lơ đãng đôi hôm thấy thẩn thờ
Thi vị tám câu khơi biển mộng
Văn chương năm vận dấy trời mơ
Xem ra bút viết tay còn muốn
Nghĩ lại đèn chong mắt đã đờ
Tằm vẫn đam mê say nhả kén
Nhện này cố gắng - gọi đan tơ!

Trương Văn Luỹ
01/03/2019

★ Bài hoạ của Phan Lynn Mộng Liên

DÌU DẶT ĐƯỜNG TƠ

(Bát láy)

Trong niềm trắc ẩn bẽ bàng thơ
Để lạnh hoàng hôn nắng thẫn thờ
Gợi trái tim hồng khe khẽ mở
Thương màu tím nhạt lỡ làng mơ
Còn đang khắc khoải chờ duyên nợ
Vẫn thoảng đìu hiu đọng bến bờ
Ái ngại tương phùng sao chẳng nỡ
Nên dìu dặt mãi với đường tơ.

Phan Lynn Mộng Liên

★ Bài hoạ của Phạm Sinh

BẠN HỮU HÒA THƠ

ngũ độ thanh

Thả chút men nồng gợi diễu thơ
Làm mê khoái mộng dõi tôn thờ
Gieo vần để thích trong huyền ảo
Gửi ý cho tường rạng diễm mơ
Nghĩa trải êm hồn khơi vọng nhớ
Tình trao mát dạ thoảng hong đờ
Xem bài nể phục chơi hòa thắm
Bạn hữu vui mừng gắn chỉ tơ..!

Phạm Sinh

★ Bài hoạ của Dung Nguyên

THƯƠNG THẦM

Thương thầm trộm nhớ cái nàng thơ
Để mỗi chiều nghe dạ thẫn thờ
Những sớm niêm trào theo nhịp thở
Từng đêm vận hé rủ niềm mơ
Gia Trang kiếm bạn hồn đau thắt
Mạng số tìm câu mắt dại đờ
Chẳng hiểu khi nào ta mắc nợ
Thôi đành chấp nhận mối duyên tơ!

DUNG NGUYÊN
03/03/2019

--------------------------------------------------------
CÁC BÀI HOẠ CỦA THI NHÓM HOÀNG GIA
--------------------------------------------------------

★ Bài hoạ của Thanh Trương

DUYÊN THƠ
-/-
Duyên tình đã lở với nàng thơ
Lựa chữ, gieo vần, mãi thẫn thờ
Ngày bận đối câu, không nhớ bữa
Đêm nằm say giấc, vẫn còn mơ
Ý hay bắt chợt lòng hồ hởi
Câu hoạ chưa xong dạ đẫn đờ
Thân hữu bốn phương, meo với chát
Già nua tuổi tác, tưởng còn tơ…

Thanh Trương

★ Bài hoạ của Như Thu

CÕI TẠM!

Ảm đạm sương mù lạnh áng thơ
Lời hay ý đẹp chẳng tôn thờ
Đồi hoang hiu hắt dừng suy nghĩ
Nắng nhẹ im lìm gác mộng mơ
Đếm chuỗi sầu tư lòng mỏi mệt
Se cơn phiền muộn dáng lờ đờ
Dương trần cõi tạm nào lưu luyến
Quăng gánh ưu hoài bởi rối tơ!

Như Thu

★ Bài hoạ của Trương Văn Luỹ

TẰM VÀ NHỆN

Lang thang lên mạng gặp bài thơ!
Lơ đãng đôi hôm thấy thẩn thờ
Thi vị tám câu khơi biển mộng
Văn thơ năm vận dấy trời mơ
Xem ra bút viết tay còn muốn
Nghĩ lại đèn chong mắt đã đờ
Tằm vẫn đam mê say nhả kén
Nhện nầy cố gắng - gọi đan tơ!

Trương Văn Luỹ

★ Bài hoạ của Thanh Hoà

DỆT TƠ

Bấy chầy đắm đuối với nàng thơ
Ngơ ngẩn nhiều khi đến thẫn thờ
Gắng sức tìm câu tròn tưạ mộng
Bền gan kiếm vận đẹp như mơ
Mong chờ mỗi phút xây xong kén
Ngóng đợi từng giây nhả hết tơ
Nhìn lụa em hong trong nắng mới
Thương yêu rộn rã khiến hồn đờ...

Thanh Hoà

★ Bài hoạ của Hương Thềm Mây

VUI HỌA XƯỚNG

Duyên tình xướng họa gửi bài thơ
Lẫn thẫn tâm tư thấy thẫn thờ
Viết lách đôi câu dường tựa mộng
Suy tầm mấy tứ tưởng như mơ
Ham vui cứ vậy cho thêm muốn
Thích thú mãi vầy chớ có đờ
Trải dạ vui buồn cùng bầu bạn
Se đều muôn ý dệt nên tơ

Hương Thềm Mây – GM nguyễn đình Diệm
20.02.2019

★ Bài hoạ thuận nghịch độc của Liêu Xuyên

XÚC CẢM VẦN THƠ

Đọc Xuôi:
Vui buồn nỗi xúc cảm vần thơ
Bút ngọc lời vương kiếp thẫn thờ
Tươi thắm tiếng đời luôn ấp mộng
Luyến lưu nhân thế mãi hoài mơ
Cười yêu lắm nợ tình xao xuyến
Khoái thích nhiều duyên phận đẫn đờ
Ơi hỡi đó văn dùng tải đạo…
Khơi nguồn mạch sống đẹp lòng tơ !

Đọc Ngược:
Tơ lòng đẹp sống mạch nguồn khơi
Đạo tải dùng văn đó hỡi ơi
Đờ đẫn phận duyên nhiều thích khoái
Xuyến xao tình nợ lắm yêu cười
Mơ hoài mãi thế nhân lưu luyên
Mộng ấp luôn đời tiếng thắm tươi
Thờ thẫn kiếp vương lời ngọc bút…
Thơ vần cảm xúc nỗi buồn vui !

Liêu Xuyên

★ Bài hoạ của Cao Mỵ Nhân

CUỘC TÌNH THƠ

Làm sao có thể bỏ quên thơ
Để phải băn khoăn đến thẫn thờ
Đó chính là niềm vui bất tận
Còn thường kêu nỗi nhớ lơ mơ
Mê hồn mỗi lúc nhìn mây nổi
Tỉnh mộng đôi khi ngó nắng đờ
Ngôn ngữ văn chương, ôi diễm tuyệt
Tình như kết tóc với se tơ ...

Hawthorne 1 - 3 - 2019
CAO MỴ NHÂN

★ Bài hoạ của Trần Như Tùng

BẠN TÔI XƯỚNG HỌA

Tôi bạn đường thi xướng họa thơ
Thú vui tao nhã mãi tôn thờ
Chung đề gửi gắm niềm tâm sự
Chung điệu giãi bày ý ước mơ
Tứ đẹp nhâm nhi mà háo hức
Từ hay nhấm nháp đến ngây đờ
Vững niêm chắc đối tình câu chữ
Rút ruột thân tằm quý mối tơ

Trần Như Tùng

★ Bài hoạ của Cao Bồi Già (Vũ Huy)

THI THÚ

Tuổi già vui thú chuyện làm thơ
Chữ nghĩa mê say, dạ thẫn thờ
Ấy lạ nhiều khi, bay với gió
Ôi chà lắm lúc sống trong mơ
Dưng lời cảm thán, lòng đâm dại
Ác cái vần gieo , bút hóa …đờ
Ngẫu hứng hoàng hôn ngâm mấy tứ…
Chiều vàng rơi nhẹ, nhẹ như tơ.

CAO BỒI GIÀ
02-03-2019

★ Bài hoạ của Đức Hạnh

DUYÊN THƠ

Đa tình thả tứ ghẹo nàng thơ
Ước vọng mùa xuân chẳng thẩn thờ
Trãi cánh Đường thi hòa suối mộng
Vào vườn Quý hữu thỏa niềm mơ
Dù rằng nụ nở hoa chưa thắm
Dẫu đã vần khai bút mãi đờ
Trọn kiếp như tằm vui mãn nguyện
Duyên trời rạng rỡ kết duyên tơ.

Đức Hạnh
02 03 2019

★ Bài hoạ của Sông Thu (Phương Hà)

MỐI DUYÊN THƠ

Lâu rồi không xướng họa văn thơ
Ngày nhớ bâng khuâng, tối thẫn thờ
Tìm ý, đặt câu... sao ngắc ngứ
Chọn vần, đối chữ...thấy lơ mơ
Cho hay thiếu luyện, tài thui chột
Mới biết quên chăm, tứ lạc đờ
Tự hứa từ nay trau chuốt lại
Cùng bè bạn dệt mảnh thi tơ.

Sông Thu

★ Bài hoạ của Đặng Mai

THƠ BẦU BẠN

Bao năm lòng vẫn nhớ vần thơ
Nhớ tợ tình em đến thẫn thờ
Nhớ lúc nhâm nhi trà dưới nguyệt
Nhớ khi nhấm nháp rượu trong mơ
Suy đi có lúc lòng hưng phấn !
Nghĩ lại đôi khi trí cứng đờ !
Vẫn nhớ ngày thơ thường động đậy
Bây giờ héo úa vẫn vương tơ

M.Đ

★ Bài hoạ của Thy Lệ Trang

XA MỐI DUYÊN THƠ

Từ lâu biết bác bỏ nàng thơ
Nhưng đáy hồn kia cứ thẫn thờ
Câu chửa thành câu còn mãi nhớ
Mộng chưa tròn mộng vẫn hoài mơ
Tằm xa, khung lạnh đau lòng kén
Phím lỡ, đêm dài tiếc tiếng tơ
Tuổi hạc, xin người quên tất cả...
Buồn chi cho mắt lão thêm đờ !

Thy Lệ Trang

★ Bài hoạ của Lá úa (Trần Hồng Vân)

CHIỀU VỀ

Chiều về góp nhặt mấy vần thơ
Một thoáng suy tư chợt thẩn thờ
Ngắm cánh chim bay ngoài gió lộng
Nhìn vầng mây xám gởi hồn mơ
Bên hiên lác đác từng lả rụng
Ảm đạm buồn vương dạ đẩn đờ
Khắc khoải vì đâu lòng tự hỏi
Nơi nào gởi trọn mấy đường tơ...?

Lá úa /3/3/2019

★ Bài hoạ của Như Thị (Lê Đăng Mành)

MẦN THƠ

Vui buồn chắc sẽ ứa thành thơ
Lòng cứ lâng lâng ý thẫn thờ
Chẻ nước đong mây dìu giấc mộng
Khều trăng lặt gió níu cơn mơ
Trâm ngâm lẩn thẩn dù ngây dại
Lặng lẽ đê mê dẫu đẫn đờ
Cần mẫn chắt chiu soi bóng nhện
Vo vần kết mực học luồn tơ

Như Thị

★ Bài hoạ của Phùng Trần - Trần Quế Sơn

CHÚT DUYÊN THƠ

Ngỡ mình còn nợ chút duyên thơ,
Sao cõi lòng ta cứ thẩn thờ.
Dụng chữ ghép từ giăng bến mộng,
Gieo vần tìm ý dệt trời mơ.
Để hồn phiêu lãng thêm ngây ngất,
Cho dạ tương tư hóa đẫn đờ.
Có phải thi văn thêm nghiệp dĩ,
Kiếp tằm rồi cũng nhả đường tơ.

March-05-2019
Phùng Trần – Trần Quế Sơn

★ Bài hoạ của Minh Thuý

TÌNH THƠ

Khát vọng xa vời mượn ý thơ
Từng ru giấc ngủ để tôn thờ
Chiều vừa nắng tắt gom cành mộng
Ngõ sắp đêm mù thắp bể mơ
Lá rụng ngày thu lòng đắm đuối
Mây trôi tháng hạ mắt say đờ
Tình theo mạch sống đan hơi thở
Nhặt mảnh hồn sầu cuộn tóc tơ

Minh Thuý

5 tháng 3 _ 2019

★ Bài hoạ của chị Suối Kiết

KHÓ DỨT TÌNH THƠ

Sai vần lạc điệu tội bài thơ
Đã tưởng quên đi vẫn thẩn thờ
Hiện tại đôi khi là thử thách
Tương lai lắm lúc chỉ nằm mơ
Ra vào lơ đãng hồn ngơ ngẩn
Suy nghĩ vu vơ trí đẫn đờ
Nắn lại cung đàn xưa bỏ dở
Thân tằm mãi mãi cứ xe tơ !

THIÊN HẬU

------------------------------------------------
CÁC BÀI HOẠ CỦA VƯỜN THƠ THẨN
------------------------------------------------

★ Bài hoạ của Thái Huy

THẮM NGHĨA TÌNH THƠ

Hẹn rồi còn khéo thả theo thơ
Cho bậu ngày đêm cứ thẩn thờ
Muốn rõ cái tâm người đã hứa
Mong nhìn chân tướng bạn đang mơ
Ngay tình hoặc dối làm như thật
Dẻo sức hay gian giả bộ dờ
Vậy Thắng có ngon nào ấy tiếp
Chung lòng hẳn sẽ kết duyên tơ ?

Thái Huy, 2/28/2019

★ Bài hoạ của Mai Xuân Thanh

BẠN TÔI RẤT SÍNH THƠ

Mê ai điếu đóm vẫn làm thơ
Cắn bút hồi lâu cứ thẩn thờ
Chìm đắm năm câu dường nín thở
Say sưa mấy luật tựa nằm mơ
Gieo vần lựa chữ hay chuyên chở
Đối chuẩn trau từ dở hóa đờ
Lạc vận giờ sao đành tráo trở
Có duyên không nợ đứt đường tơ.

MAI XUÂN THANH
Ngày 01/03/2019

★ Bài hoạ của Đỗ Chiêu Đức

THẮM NGHĨA TÌNH THƠ

Thẩn thơ vui vẻ với nàng thơ,
Thử nghiệm bỏ chi để thẩn thờ !?
Tim đập nên vần thơ mãi đập,
Tình mơ vì mộng tưởng còn mơ.
Lo hôm nào đó lòng chay đá,
Sợ một ngày kia trí đẫn đờ.
Còn sống cùng thơ vui bạn hữu,
Nên càng cố gắng nhả tàn tơ !

Đỗ Chiêu Đức

★ Bài hoạ của Thầy Trầm Vân

THƠ GỬI NGƯỜI XA

Mến người trao gửi mấy vần thơ
Đêm sáng lung linh nhớ thẫn thờ
Ánh mắt dịu dàng ru giấc mộng
Nụ cười mê hoặc gội cơn mơ
Xạc xào lá rụng thu xao xuyến
Ngơ ngẩn tim rung dạ đẫn đờ
Xa cách ngàn trùng ai có biết
Mối tình mong kết tóc se tơ

Trầm Vân

Bình Minh Thôn Dã

<D.460~Tình Quê>



BÌNH MINH THÔN DÃ

Tàn đêm lặng vẳng tiếng canh gà
Váng phủ sương dày duỗi mộng qua
Ánh hửng trời nhen vầng nhật đã
Đàn tung cánh nhận cảnh quang mà
Xàng xênh vịt đám bơi nhàn nhã
Ngợm nghĩnh kê bầy bước đủng đa
Chó dẫn bò đi tìm cỏ lạ
Ngầm thương đến lượt lão dê già!

Mai Thắng – 190228

★ Bài xướng của Như Thu

GÀ TÂY NGOẠN CẢNH

Bóng lệch tàn che những chú gà
Nô đùa thỏa chí mặc người qua
Cánh xoè yểu điệu lòng mê quá!
Nắng trải miên man bạn thích mà!
Một thoáng mơ màng ngây ngất dạ
Bao niềm say đắm ngỡ ngàng ta
Trời ban tuyệt tác hồn nghiêng ngả
Khung cảnh bình yên đón tuổi già!

Như Thu

★ Bài hoạ của Sông Thu (Phương Hà)

ĐÀN GÀ TRONG VƯỜN

Thú sao khi ngắm cảnh đàn gà
Buổi sáng trong vườn ríu rít qua
Mũm mĩm bầy con xinh xắn quá
Ân cần mái mẹ đảm đang mà !
Chíu cha chíu chít... vui ồn ã
Bới bới đào đào... rộn tíu ta
Hình ảnh đơn sơ thương đến lạ
Ngắm nhìn quên hẳn tuổi thu già....

Sông Thu

★ Bài hoạ của Cao Mỵ Nhân

CANH GÀ

Chờ nhau tưởng đã mấy canh gà
Nào biết năm dài, tháng rộng qua
Hỏi bạn xuân tình tha thiết quá
Thương mình cõi tạm nhớ nhung mà
Thức đêm, mong sáng đời vui lạ
Bỏ bút, quên thơ chúng hại ta
Nghiêng bóng tìm trăng, hình suýt ngã
Chao ôi, chắc tại mắt đang già...

Hawthorne 26 - 2 - 2019
CAO MỴ NHÂN

28 tháng 2 2019

Tiễn nhà thơ Minh Chiếu

<D.459~Tiễn Đưa>

Tiễn biệt nhà thơ MINH CHIẾU
(CLB Thơ ca Mây Hồng Cao Lãnh)
đã ra đi vĩnh viễn lúc 03:07 ngày 25/02/2019
tại thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp




THƠ TIỄN NGƯỜI THƠ

Xót tiễn nhà THƠ “BIỂN GỌI” rời
Mây Hồng “ĐỈNH HẸN” áng THƠ rơi
Đời THƠ “NỖI NHỚ” qua nhiều buổi
Khúc hội “DUYÊN THƠ” nhỏ ít lời
“NHẶT BÓNG HOÀNG HÔN” THƠ ráng lịm
“TÂM TÌNH CÂY BÚT” tiếng THƠ ngơi
“TRANG ĐỜI” viết ‘TUỔI THƠ 17”
Một “DẤU XƯA” THƠ “DÁNG ĐỨNG” người!

Diễm Thy - 190226
(Hội viên CLB thơ ca Mây Hồng)

* Ghi chú:
- Các từ viết chữ in hoa trong dấu ngoặc kép là tên các sáng tác của nhà thơ Minh Chiếu đăng trên Sen Đất Tháp và trong tập thơ "Nhặt bóng hoàng hôn"

- Riêng từ "THƠ" chỉ là nhấn mạnh cho lối chơi dùng điệp từ "THƠ" trong tất cả các câu thơ.

25 tháng 2 2019

C. Bể Dâu

<C.019><Điển tích văn học>

Đề tài: BỂ DÂU
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC


        Thành ngữ Điển tích BỂ DÂU còn được nói thành DÂU BỂ, và là nói gọn lại của nhóm từ "Bãi Bể hoá Nương Dâu" dịch từ gốc Hán Việt là "Thương Hải Tang Điền 滄海桑田 ", có thể đão thành "Tang Điền Thương Hải", và trong văn chương văn học Việt Nam ta hay sử dụng từ "Thương Tang" hay "Tang Thương", như trong bài "Thăng Long Thành Hoài Cổ" của bà Huyện Thanh Quan :
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với TANG THƯƠNG.

        Điển tích nầy thường dùng để chỉ cảnh vật hoặc chuyện đời thay đổi một cách nhanh chóng, vô chừng, đến đổi không thể ngờ trước được, theo tích sau đây :
        Thái Bình Quảng Ký, quyển 60, theo Thần Tiên Truyện của Cát Hồng đời Tấn : Vào đời Hán Hiếu Hoàn Đế có hai tiên nhân, một người là Vương Viễn, tự là Phương Bình; một người là Ma Cô Tiên cô. Có một bận, Vương Phương Bình giáng lâm nhà bạn là Thái Kinh với một đoàn tuỳ tùng tiền hô hậu ủng thật rình rang và ngồi trên tiên xa do năm con rồng kéo đến. Nhưng khi vừa giáng xuống sân nhà thì tất cả tùy tùng đều biến mất, chỉ thấy Vương Viễn uy phong lẫm liệt như một vị tướng quân. Sau khi ra mắt người nhà Thái Kinh, Vương bèn ngẩn đầu lên không trung đưa tay ngoắt ra dấu cho người đi mời Ma Cô Tiên. Một lát sau, sứ giả từ không trung báo xuống : " Ma Cô Tiên Cô bảo rằng đã hơn năm trăm năm chưa gặp được tiên sinh, nhưng vì bận phải đi tuần du tiên đảo Bồng Lai, sẽ đến trong chốc lát". Vương khẻ gật đầu. Ngồi đợi trong giây lát, bỗng nghe trên không trung tiếng nhạc vang lừng, Ma Cô từ không trung giáng xuống với y trang rực rỡ, tóc mây buông dài trông như cô gái mười tám đôi mươi của thế gian. Sau khi cùng nhau hành lễ, Vương cho người nhà bày tiệc khoản đãi. Chỉ thấy toàn là các loại cây trái qua qủa được bưng lên trong các mâm chậu thật đẹp, mùi hương của trái cây ngào ngạt khắp phòng.

  
      Trong buổi tiệc, Ma Cô nói với Vương Viễn rằng :" Kể từ ngày đắc đạo và nhận lấy thiên mệnh tuần tra đến nay, cũng đã ba lần thấy Đông hải biến thành ruộng dâu. Mới vừa đây, khi tuần tra đảo Bồng Lai, thấy nước biển ở đây đã cạn đi một nửa, chắc biển lại muốn biến thành đất liền nữa rồi !".
        Vương Phương Bình Thở dài mà rằng :" Đúng vậy, các thánh nhân đều bảo, nước biển đang cạn dần, chắc không bao lâu nữa nơi ấy sẽ là nơi đầy rẫy cả bụi hồng trần !". Tiệc tan trong một ngày, nhưng ở thế gian đã là cả ngàn năm rồi, mới hay, không gian khác nhau thì thời gian cũng sẽ khác nhau. Trong mắt thần tiên chỉ một thoáng, nhưng ở thế gian thì bãi bể đã hoá nương dâu rồi .

Ma Cô Tiên và Vương Viễn

        
Điển tích TANG ĐIỀN THƯƠNG HẢI thường được nói gọn lại thành TANG THƯƠNG như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu :
Phong trần đến cả sơn khê,
TANG THƯƠNG đến cả hoa kia cỏ này.


        Hay lấy chữ đầu và chữ cuối mà nói thành TANG HẢI, như trong Truyện Từ Thức gặp Tiên :
Nguồn cơn biết ngỏ ai hay, 
 Giận cơ TANG HẢI trách ngày thiếu niên.

        Lắm lúc lại chỉ sử dụng một vế THƯƠNG HẢI mà thôi, như trong truyện Lưu Nữ Tướng :
Kìa đâu ngàn Sở bãi Tần,
Tưởng cơ THƯƠNG HẢI xoay vần kíp sao !

 

        Thương Hải Tang Điền còn được dịch thẳng ra tiếng Nôm là BÃI BỂ NƯƠNG DÂU, cũng trong Cung Oán của Nguyễn Gia Thiều :
    Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
    Ai bày trò BÃI BỂ NƯƠNG DÂU ?

        Hay như trong bài Ai Tư Vãn của Công Chúa Ngọc Hân khóc vua Quang Trung :
 
Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy.
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu !
Phút giây BÃI BIỂN NƯƠNG DÂU,
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao ?

        Còn trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du đã mở đầu bằng những câu:
 
Trăm năm trong cỏi người ta,
Chữ TÀI chữ MỆNH khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc BỂ DÂU,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

        Và cụ đã đão ngược lại thành DÂU BỂ, khi cho Thúy Vân hỏi Kiều một cách thật vô tư đến ... đáng trách là :
Cơ trời DÂU BỂ đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình.
Cớ sao ngồi nhẫn tàn canh,
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây ?!

   
     Trong văn chương cận đại đã ít sử dụng điển tích văn học, nhưng khi đọc đến bài thơ Sông Lấp của ông tú Vị Xuyên Trần Tế Xương, nghe như có cái gì đó nghèn nghẹn cho sự TANG THƯƠNG BIẾN ĐỔI khi dòng sông Vị Hoàng của quê ông bị lấp, ông đã làm bài thơ với đầy vẻ ưu thời mẫn thế như sau :
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò !
Trần Tế Xương.
Đỗ Chiêu Đức

Em Gầy Như Liễu

<D.458~Thơ Văn>

"Em gầy như liễu trong thơ cổ

Anh bỏ trường thi lúc thịnh đường"
(Nguyên Sa)



EM GẦY NHƯ LIỄU

(Thể tung hoành trục khoán – cách cú đối)

EM vẫn chờ ai một góc đường
GẦY gò dáng nhỏ bến Tiêu Tương
NHƯ hồn lặng ngắt chiều hoang dã
LIỄU rủ hồ soi giặm má hường
TRONG bóng xa xăm miền khả ước
THƠ chằm mảnh vỡ vá trời sương
CỔ lai dẫn lối mòn thiên mệnh
ANH BỎ TRƯỜNG THI LÚC THỊNH ĐƯỜNG.

Mai Thắng - 190225

★ Bài xướng của Tường Vân

PHỐ CŨ CHIỀU SƯƠNG

EM lặng chờ ai cuối đoạn đường
GẦY mòn năm tháng cạn dòng tương
NHƯ màu mắt đợi phương trời vắng
LIỄU thẹn hoa ghen nhạt má hường
TRONG cõi người đi chiều gió lạnh
THƠ buồn chỉ rối tựa mành sương
CỔ nhân ơi hỡi về đâu tá..?
ANH BỎ TRƯỜNG THI LÚC THỊNH ĐƯỜNG

Tường Vân - 23/02/19

★ Bài hoạ của Ngọc Liên

CHIỀU TRÊN SÔNG TƯƠNG

EM đợi chiều qua góc giáo đường
GẦY từng nỗi nhớ giữa bờ tương
NHƯ chùm phượng vỹ ngày thưa nắng
LIỄU gửi tình theo điểm áo hường
TRONG ánh tà dương mùa chớm hạ
THƠ dìu nhạc đến phủ lầu sương
CỔ xưa đã nhuốm màu quên lãng
ANH BỎ TRƯỜNG THI LÚC THỊNH ĐƯỜNG.

Ngọc Liên 23.02.19

Hoa tình nhân


<D.457~Lễ Hội>


HOA TÌNH NHÂN

Chợt bảo nhau nhìn rỡ sắc tươi
Màu hoa kỷ niệm ghép chung đời
Nhiều năm ấp ủ nuôi tình mặn
Mấy thuở duy trì bội nghĩa vơi
Dẫu khoé môi nhoà phai vệt cảm
Hay làn tóc cũ lệch ngôi dời
Ngày Va nhắc lại thời điên đảo
Những dịp hâm nồng chớ để rơi

Mai Thắng – 190214

★ Bài xướng của Văn Thanh

ĐOÁ HOA TÌNH NHÂN

(tặng bà xã)
-/-
Tình Nhân Kỹ Niệm, đoá hoa tươi
Âu yếm tặng em, người bạn đời
Thể xác mỏi mòn thời chiến loạn
Thân cò lặn lội buổi thay dời
Trăm năm biển ái, không hề cạn
Ngày tháng mộng mơ, mãi chẳng vơi
Tuổi hạc đôi ta cùng sóng bước
Yêu còn yêu mãi ,dẫu chiều rơi…

Thanh Trương

18 tháng 2 2019

Đường về cõi Phật

<D.456><Thơ Thiền>



ĐƯỜNG VỀ CÕI PHẬT

Cõi Phật đi tìm nếm trải gai
Cầu an nhẫn luyện chí nung mài
Tâm còn rối loạn men tình thoảng
Thức vẫn in hằn cảnh mộng phai
Muốn lãng quên hoà duyên khổ hạnh
Buồn xâu xé chạnh nỗi u hoài
Con đường ngộ biến đầy nhân quả
Niệm vãn thanh lòng nhủ thái lai.

Mai Thắng - 190217

★ Bài xướng của Thầy Sắc Tứ Minh Thiện
(trên Trang xướng hoạ Mộc Gia Trang)

ĐƯỜNG VỀ TỊNH ĐỘ

Đường về Tịnh Độ lắm chông gai
Vẫn quyết bền tâm chí nguyện mài
Bởi giấc Nam Kha còn lắng đọng
Nên miền Cực Lạc chẳng phôi phai
Dòng mê mấy bận chìm quên lãng
Bến giác nhiều phen dậy cảm hoài
Sáu chữ Di Đà tinh tấn niệm
Sen vàng chín phẩm kiến Như Lai!

Sắc Tứ Minh Thiện
19:30 - 14/02/2019

★ Bài hoạ của Dung Nguyên

PHẬT Ở TRONG TÂM

Cõi lạc đâu dè thật góc gai
Người theo phải nhẫn trí năng mài
Rèn tâm thánh thiện tình luôn nhủ
Dưỡng đức nhu mì tục sẽ phai
Nghiệp chướng còn đeo cầu chẳng được
Tai ương chửa dứt nguyện cho hoài
Nuôi mầm phúc hỉ từng đêm niệm
Chắc hẳn sau này hưởng thái lai

DUNG NGUYÊN
19:58 - 14/02/2019

★ Bài hoạ của Mỹ Trinh

TỊNH TÂM

Tâm hiền trí mẫn vượt vòng gai
Phật giữa lòng ta rạng ngỡ mài
Niệm chữ bình an hờn giảm bớt
Cho hồn nhẹ nhõm oán dần phai
Cầu mong ánh sáng soi đường mãi
Ước nguyện trần gian tạo phúc hoài
Miệng khấn Di Đà sân gạt bỏ
Vô thường một cõi biết trùng lai?

TTMT
18.2.19

17 tháng 2 2019

C. Cử Án Tề Mi

<C.018><Điển tích văn học>

Đề tài: CỬ ÁN TỀ MI
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC



        CỬ 舉 là Nâng lên cao; ÁN 案 là Cái Mâm có chưn; TỀ 齊 là Ngang bằng; MI 眉 là Chân Mày. Nên CỬ ÁN TỀ MI 舉案齊眉 là : "Nâng cái mâm lên ngang bằng chân mày" để tỏ vẻ kính trọng. Trong Truyện Kiều, trong buổi đầu gặp gỡ khi Kim Trọng tỏ ý muốn nghe Thúy Kiều đàn, được Kiều đồng ý thì Kim đã ...
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
Vội vàng sinh đã tay Nâng Ngang Mày.


        Lịch sự và "ga-lăng" như Kim Trọng chỉ hợp với thời buổi ngày nay, còn lúc đó mà làm thế thì cũng ... "hơi quá đáng". Có thể cụ Nguyễn Du đã đi trước thời đại trong việc "cua gái", chả trách cô Kiều lại mê Kim Trọng đến thế ! Thực ra thì ...  Điển Tích CỬ ÁN TỀ MI 舉案齊眉 hàm chứa một nội dung vô cùng phong kiến của thời buổi Trọng Nam Khinh Nữ, chồng chúa vợ tôi như sau :
        Ẩn sĩ đời Đông Hán Lương Hồng 梁鴻, tự là Bá Loan 伯鸞, người đất Phù Phong Bình Lăng (thuộc Hàm Dương tỉnh Thiểm Tây ngày nay). Hồng học rộng biết nhiều, nhà nghèo nhưng vẫn giữ khí tiết của kẻ sĩ, từng là Thái học sinh của hoàng gia lúc bấy giờ.



        Do Lương Hồng có phẩm chất đạo đức thanh cao, nên rất nhiều người muốn gả con cho, nhưng đều bị Hồng từ chối. Cùng huyện có con gái của gia đình họ Mạnh rất khá giả, tên là Mạnh Quang, vừa đen vừa mập vừa xấu, lại có sức mạnh hơn người. Mạnh Thị đã hơn ba mươi tuổi mà vẫn chưa chịu lấy chồng, cha mẹ hỏi thì nói rằng : " Con muốn lấy người có đạo đức tốt như Lương Bá Loan vậy !". Lương Hồng nghe nói bèn cậy mai mối đến hỏi nàng về làm vợ.

        Mạnh Quang vô cùng mừng rỡ. Đêm động phòng hoa chúc, nàng trang điểm và ăn mặc thật đẹp để đợi chú rể mới vào. Nào ngờ, liên tiếp bảy đêm liền, chú rể Lương Hồng vẫn không thèm vào động phòng. Mạnh Quang bèn đến qùy trước mặt chồng mà nói rằng: "Thiếp đã sớm nghe tiếng cao nhã của chàng, nên lập chí quyết lấy cho được chàng; còn chàng thì cũng đã từ chối rất nhiều người, cuối cùng mới chọn thiếp làm vợ, nhưng không hiểu thiếp đã phạm phải lỗi lầm gì mà suốt bảy ngày nay chàng không thèm ngó ngàng đến thiếp vậy?". Lương Hồng đáp rằng: "Ta vẫn luôn mong mõi có một người vợ quần bố thoa kinh 荊釵布裙 hay Kinh Thoa Bố Quần, là quần bằng vải, trâm cài bằng cỏ gai để cùng với ta ẩn cư nơi núi sâu rừng thẳm. Nay nàng mặc lụa là gấm vóc, trét phấn tô son, điểm trang đẹp đẽ thế nầy, thật không phải là người vợ lý tưởng của Lương Hồng nầy".

        Mạnh Quang nghe xong bèn thưa với chồng rằng: " Mấy hôm nay thiếp ăn mặc và trang điểm như thế nầy là cũng muốn xem coi chàng có thật là một hiền sĩ cao nhã không mà thôi. Thiếp cũng đã chuẩn bị sẵn y phục để chung sống với chàng rồi!". Nói đoạn, nàng bèn đi thay đồ bằng vải sô, xõa tóc mây xuống mà bới thành một búi tóc gọn ghẽ trên đầu, rồi ngồi vào khung cưởi mà dệt vải ngay. Lương Hồng trông thấy cả mừng, bèn bước tới thi lễ mà rằng: "Đây mới thật sự là vợ của Lương Hồng ta đó!".

        Vợ chồng Lương Hồng vốn ở ẩn ở Bá Lăng ( Tây An ngày nay ), nhưng vì để tránh hiệu triệu của vua bắt ra làm quan, nên vời về đất Ngô ( tỉnh Giang Tô ngày nay ). Cả hai ở trọ trong căn phòng nhỏ dưới mái hiên bên trái của nhà Cao Bá Thông. Hằng ngày, Lương Hồng đi xay và giả gạo mướn ở trong làng để kiếm sống. Mỗi lần về nhà, Mạnh Quang đều dọn sẵn mâm cơm bưng ra nâng lên ngang mày để dâng cho chồng. Lương Hồng đở lấy mâm cơm đặt lên bàn rồi vợ chồng mới mời nhau cùng ăn, tương kính như tân 相敬如賓 ( kính trọng lẫn nhau như là đối đãi với khách vậy ). Cao Bá Thông trông thấy, giật mình, nghĩ rằng : " Một người đi làm công kiếm sống mà được vợ kính trọng như thế, ắt không phải là kẻ tầm thường".

        Sau khi dọ hỏi, biết được đó là ẩn sĩ Lương Hồng, bèn cung kính mời cả hai vợ chồng vào nhà trên ở và cung cấp đầy đủ lương thực. Nhờ thế mà Lương Hồng mới có thời gian rảnh rổi để lập thuyết và viết sách để lại cho đời sau.



        Từ câu truyện của Điển tích trên, cho ta đến 3 thành ngữ :

        1. Kinh Thoa Bố Quần 荊釵布裙 :
        Ta hay nói trại đi thành Thoa Kinh Quần Bố hay Quần Bố Kinh Thoa để chỉ người đàn bà có nếp sống giản dị, bình thường , không xe xua đua đòi.

        2. Tương Kính Như Tân 相敬如賓 :
        Chỉ vợ chồng kính trọng lẫn nhau, xem nhau như là khách quý của nhau vậy.

        3. Cử Án Tề Mi 舉案齊眉 :
        Nâng án ngang mày, thường dùng để chỉ Vợ chồng thương yêu kính trọng lẫn nhau. Như trong truyện Quan Âm Thị Kính :
Án kia nâng ở Ngang Mày,
Sạch trong một tiết, thảo ngay một bề. 

        Trong Nam Hải Tế Văn thì gọi là Án Họ Mạnh:
Án họ Mạnh Ngang Mày nẩy mực,
Ấm êm đàn hương lửa phải duyên.

        Hay như trong truyện Tây Sương Ký :
Mặt từ ví chẳng ngại ngùng,
Xắn tay cử Án xin Dâng Ngang Mày. 

        Và như khi tả cảnh Hoài Nguyên đi cống Hồ trong NHỊ ĐỘ MAI, có làm bài thơ tặng cho Mai Lương Ngọc:
Ngang Mày Mạnh Thị chưa Nâng Án,
Thấy mặt Chiêu Quân đã hết tranh.


        Cử Án Tề My còn dùng để chỉ Tình Nghĩa Vợ Chồng hòa thuận thương yêu lẫn nhau chư câu chúc : "Chúc cho vợ chồng được suốt đời Cử Án Tề My !".




        Trở lại với chàng Kim Trọng khi muốn nghe Thúy Kiều đờn, thấy "Hiên sau treo sẵn cầm trăng" thì : "Vội vàng sinh đã tay Nâng Ngang Mày" để tỏ vẻ kính trọng và "ga-lăng" với người đẹp khi mới vừa thề thốt yêu nhau. Nên "Nâng Ngang Mày" vật gì đó để đưa cho người khác, đôi khi chỉ có nghĩa là tỏ lòng Kính Trọng đối với người đó mà thôi!

Đỗ Chiêu Đức

Nhất Chi Mai

<D.455~Thơ Xuân> 

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai!


* Dịch Việt ngữ:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(Mãn Giác Thiền Sư)




NHẤT CHI MAI

(Cách cú đối)

CHỚ cầu bước lạc cảnh bồng lai
BẢO nguyện tròn mơ nhủ gót hài
XUÂN nhiệm mầu trôi miền lẳng lặng
TÀN rồi mộng thắm lãng chiều phai
HOA nhàu úa giữ hồn trong trắng
RỤNG xuống thềm hoang thả lược cài
HẾT chuỗi canh dài nhen nụ mới
ĐÊM QUA SÂN TRƯỚC MỘT NHÀNH MAI.

Mai Thắng – 190216

----------------------------
♣ Bài xướng của Thầy Sắc Tứ Minh Thiện

TỈNH GIÁC

(Giao cổ đối)

CHỚ quên kiếp sống tựa sương cài
BẢO sở nương về được mấy ai ?
XUÂN thỉ thầm mơ , tươi ngũ phúc
TÀN tam nghiệp , đạo khát khao hoài
HOA tràn ngõ vắng , buông danh lợi
RỤNG sắc thinh , trăng khoả dặm dài
HẾT thảy phiền ưu chừng giũ sạch
ĐÊM QUA SÂN TRƯỚC MỘT CÀNH MAI !

Sắc Tứ Minh Thiện



♣ Bài hoạ của Tường Vân

DUYÊN CÒN MÃI ĐỌNG

(Cách cú đối)

CHỚ quên cánh nhạn nép mây cài
BẢO gió đông còn đợi dáng ai
XUÂN cũ tình xa sầu mấy nẻo
TÀN hương bóng rũ nét trang đài
HOA xưa bướm lạ hờn muôn kiếp
RỤNG ánh chiều pha nửa gót hài
HẾT tuổi duyên còn như muốn giữ
ĐÊM QUA SÂN TRƯỚC MỘT CÀNH MAI

Tường Vân - 16/02/19

----------------------------
♣ Bài hoạ của Ngọc Liên

NIỀM MƠ CŨ

(Giao cổ đối)

CHỚ thương tiếc nữa tuổi trâm cài
BẢO phố thôi đừng đợi bước ai
XUÂN khẽ ru tình trên bến hẹn
TÀN canh nguyệt vỡ ngẩn ngơ hài
HOA thầm gửi mộng bên thềm nhớ
RỤNG cánh sim buồn lạnh lẽo vai
HẾT cả niềm mơ ngày hạ cũ
ĐÊM QUA SÂN TRƯỚC MỘT NHÀNH MAI!

Ngọc Liên 16.02.19

Họa Thơ Sinh Nhật

<D.454~Thơ Sinh Nhật> 



SINH NHẬT MỘNG LIÊN

Xuân vừa bước giạt cửa nhà anh
Trở đón ngày sinh vỗ mộng lành
Báo mẫu tin hồng thơ đẹp mảnh
Yêu màu thiệp rỡ nắng vàng hanh
Phương trời tưởng vọng vườn hoa sánh
Thục nữ chìm mơ khúc phổ hành
Vẳng tiếng chuông chiều vang ngõ quạnh
Ai cùng tiếp dưỡng nụ còn xanh

Mai Thắng – 190215

--------------------------
★ Bài xướng của Phan Lynn Mộng Liên

SINH NHẬT

(Ngũ độ thanh)

Ngõ buốt sương mờ thoảng gọi anh
Ngày sinh nhật dõi ước duyên lành
Cho dù gió trỗi dìu mưa lạnh
Hoặc dẫu mây sầu phủ nắng hanh
Cố quận hoài trông chiều rũ cảnh
Đài trang vẫn nguyện buổi song hành
Chân trời rộng mở chim liền cánh
Thỏa tiếng tơ lòng mộng mãi xanh

Feb 15/ 2019
Las vegas
MLP

Ngày Valentine

<D.453><Ngày Valentine>




NGÀY VALENTINE

Hãy đắm cùng Va điểm mộng tình
Duyên hờ niệm tưởng nét hồn trinh
Đường mơ sáo quyện ru hoà ảnh
Giác cảm đèn khuya tự huyễn mình
Nhóm lửa hồng xua thời vãn quạnh
Nhen màu biếc tẩm nụ chiều xinh
Hương thừa rộn rã tim dồn máu
Sẽ chuyển đêm tàn vợi ánh minh

Mai Thắng - 190214

★ Bài xướng của Thạch Hãn

VALENTIN

(Ctkt-nđt-ltvt-ntvv)

V ề đây sống lại những đêm tình
Ả o mộng đâu cần chữ tiết trinh
L ặng giữa vườn khuya lời sáo nhỏ
Ê m đầu ngõ muộn bóng chiều xinh
N gồi khơi bếp lửa cùng tâm sự
T rỗi tiếp vần thơ kể chuyện mình
Í t buổi thôi rồi quên lạ lẫm
N ơi nầy rộn rã ánh bình minh ./

LCT 14/02/2019.

★ Bài hoạ của Loan Nguyen

GỞI ANH NGÀY ...VALENTINE

Cứ mãi chờ mong một cuộc tình
Cho dù chẳng vẹn tấm lòng trinh
Và đêm vẫn ước vần thơ đẹp
Lại buổi luôn tìm nét chữ xinh
Rộn rã nguồn vui lời của bạn
Đềm êm cuộc sống lẽ riêng mình
Khi dòng mực thắm tràn trang vở
Có nghĩa yêu rồi khỏi biện minh/

NPP 14/02/2019

10 tháng 2 2019

C. Đá Vàng

<C.017><Điển tích văn học> 

Đề tài: ĐÁ VÀNG 
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC


        Đá Vàng hay Vàng Đá là hai vật chất cứng rắn và bền vững. Ta hay nghe nói Cứng như Đá và Vững như Vàng, chắc cũng vì thế mà ta có từ Vững Vàng chăng ?! Vàng cho dù có bị thiêu đốt bầm dập như thế nào thì vẫn giữ được màu Vàng cố hữu không phai lạt bao giờ. " Vàng thật không sợ lửa "mà ! Nên ... Tình Đá Vàng là tình bền vững, không dễ lung lay; Lời Vàng Đá là lời nói chắc chắn trước sau như một, như lời Kim Trọng đã nói với Vương Viên Ngoại lúc trở lại vườn Thúy tìm Kiều :
    Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
    Những lời Vàng Đá phải điều nói không ?!

        "Những Lời Vàng Đá" là Kim Thạch Chi Ngôn 金石之言. Kim là Kim loại qúy, còn Đá qúy thì người xưa gọi là Ngọc; nên Kim Thạch Chi Ngôn còn được nói thành Kim Ngọc Chi Ngôn 金玉之言, ngoài nghĩa là những lời thề thốt chắc chắn, còn là những lời nói đáng trân trọng, đáng nghe theo, như lời nói của Trương Quân Thụy nói với Thôi Oan Oanh trong Tây Sương Ký : "Tiểu thơ Kim Ngọc Chi Ngôn, tiểu sinh nhất nhất minh chi phế phủ 小姐金玉之言,小生一一銘之肺腑", có nghĩa : Những lời vàng ngọc của tiểu thơ, tiểu sinh tôi đều ghi khắc ở trong lòng.

Tây Sương Ký

        Còn như Thúc Sinh khi muốn chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh, mà cô Kiều còn e ngại, vì Thúc Sinh đã có Hoạn Thư ở nhà, thì Thúc đã dứt khoát một cách chắc chắn và liều mạng với Thúy Kiều rằng :
Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
Đã gần chi có đường xa,
Đá Vàng cũng quyết phong ba cũng liều !

        Đá Vàng ở đây cũng là Kim Thạch 金石, nhưng Kim Thạch ở đây chỉ Vũ Khí dùng để đánh nhau ngày xưa. Gươm đao giáo mác đều bằng kim loại và các loại ná đều bắn bằng đá. KIM THẠCH còn dùng để chỉ chung các loại Vũ Khí, theo như sách Chu Lễ có câu : Phàm quốc hữu đại cố, nhi dụng Kim Thạch, tắc chưởng kỳ lệnh 凡國有大故而用金石則掌其令. Có nghĩa : Hễ nước có biến cố lớn, thì phải dùng đến Vũ Khí ( chiến tranh ) để nắm quyền chỉ huy. Nên câu : " Đá Vàng cũng quyết phong ba cũng liều ". Có nghĩa : Dù cho có dùng Vũ Khí ( để đâm chém cản ngăn ) thì cũng quyết lòng thương nhau, dù cho có sóng to gió lớn thì cũng liều chết với nhau. Liều mạng đến thế, chả trách Thúy Kiều phải nhắm mắt nghe theo !

Kim Thạch, Thỉ Thạch : Vũ khí ngày xưa

        Khi tự đánh giá mình là " phận mỏng cánh chuồn " Thúy kiều đã lo lắng cho mối tình duyên của mình với Kim Trọng " Khuôn duyên biết có vuông tròn mà hay ?" thì Kim Trọng đã an ủi Thúy Kiều một cách chắc chắn là :
    Ví dù giải kết đến điều,
    Thì đem VÀNG ĐÁ mà liều với thân !

        Quả là liều mạng cũng không thua Thúc Sinh chút nào cả !

        Thỉ Thạch 矢石 là Tên và Đá, cũng dùng để chỉ Vũ Khí và Chiến Tranh. Như khi Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến phục binh đánh lén, Thúy Kiều chạy đến thì chỉ thấy: 
    Trong vòng TÊN ĐÁ bời bời,
    Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ !

        Còn bình thường, như lúc ban đầu Thúy Kiều nhận lời tỏ tình của Kim Trọng trong cảnh "Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng" thì cũng đã khôn ngoan lí lắc mà đỗ thừa rằng :
Đã lòng quân tử đa mang,
Một lời vâng tạc Đá Vàng thủy chung !

        Đá Vàng ở trong câu nầy là lời hứa chắc chắn, bền vững và chung thủy trong tình yêu, sẽ không bao giờ lay chuyển đổi thay ! Nên trong đêm hò hẹn hội ngộ lần đầu, khi mà " Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi ", thì Thúy Kiều đã "xì- tóp" Kim Trọng lại bằng tích :
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay.
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương ?
Mây mưa đánh đổ ĐÁ VÀNG,
Qúa chiều nên đã chán chường yến anh !

        Đá Vàng ở đây là Duyên Vàng Đá, là Nghĩa Đá Vàng. Đá Vàng là cái gì đó trân qúy, rất đáng trân trọng, là KIM THẠCH LƯƠNG DUYÊN 金石良緣 là mối lương duyên lâu bền vững chắc và tốt đẹp như Đá với Vàng.

        Đến như lần đầu tiên khi Từ Hải tìm đến gặp Thúy Kiều ở lầu xanh với lòng hiếu kỳ là : " Bấy lâu nghe tiếng má đào, Mắt xanh chẳng để ai vào có không ?", thì cô đã trả lời một cách khiêm tốn khôn ngoan và thực tế là :
    Chút chi chọn ĐÁ thử VÀNG,
    Biết đâu mà gởi cang tràng vào đâu ?!


        Chọn Đá xem đá cứng hay bở; Thử Vàng xem Vàng thật hay giả. Ý của Thúy Kiều là muốn chắc lọc chọn lựa lấy cái tốt, muốn kiếm một tấm chồng cho xứng đáng để nương nhờ về sau. Ta hãy nghe cô nói tiếp :
    Còn như vào trước ra sau,
    Ai cho kén chon vàng thau tại mình !?

        Tội nghiệp cho các cô gái ở lầu xanh, muốn kiếm một tấm chồng đàng hoàng cũng đâu phải dễ !

        Ngoài ra, ĐÁ VÀNG còn dùng để chỉ cái gì đó rất thiêng liêng có thể lưu truyền mãi mãi về sau, như trong Đại nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái Đoạn nói về Hai Bà Trưng :    
    Được thua mấy cỏi chiến trường,
    Nghìn năm tiết nghĩa ĐÁ VÀNG lưu danh !

        "Đá Vàng Lưu Danh" ở đây ĐÁ là Bia Đá; còn VÀNG là Chuông Vàng hoặc Đĩnh Vàng có khắc chữ khắc tên ghi lại công lao chiến tích của người đã mất để lưu truyền lại cho đời sau. 

        Nhưng thường thì trong các truyện Nôm của ta Đá Vàng hay Kim Thạch gì đều thường dùng để chỉ lời giao ước hứa hẹn với nhau, như trong Hoa Tiên Ký của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện :
    Duyên này chẳng được bàn dai,
    Nhẹ đem Vàng Đá mà coi làm thường.

        Và như trong truyện Phương Hoa, quan Ngự Sử Trần Điện đã nói với quan Thượng Thư Trương Đài khi bàn về việc hôn nhân của Trần Phương Hoa và Trương Cảnh Yên : 
    Trần rằng : Kim Thạch nhất ngôn,
    Còn trời còn đất hãy còn đấy đây.


        Tóm lại, Đá Vàng hay Vàng Đá có rất nhiều nghĩa như trên đã dẫn, nên tùy theo ngữ cảnh, tùy theo câu thơ đang diễn đạt sự việc gì để hiểu nghĩa của nó một cách chính xác. Nhưng thường thì Đá Vàng hay Vàng Đá là lời đính ước hẹn hò một cách chắn chắn chân thành giữa trai gái với nhau. Trước năm 1975, ở Miền Nam còn có một tuồng hát Cải Lương lấy tựa là Trọn Nghĩa Đá Vàng.

Đỗ Chiêu Đức

Chúc Bạn Đầu Xuân

<D.452~Thơ Xuân> 



CHÚC BẠN ĐẦU XUÂN

Xuân hành hỉ chúc bạn nhà thơ
Lệ Tết tìm chia cũng chẳng ngờ
Thiện ý trao lời êm nghĩa mở
Thanh lòng mãn tứ đẹp trời mơ
Tinh thần sảng lạc khai hồn bút
Giác niệm hoà thiêng trải cõi bờ
Tổ quốc bừng say kèn rộn rã
Niềm vui hạnh phúc vững tâm chờ.

Mai Thắng – 190207

★ Bài xướng của Lâm Mỹ Thuận

CHÚC BẠN THƠ

Nắn nót đôi vần chúc bạn thơ
Sang năm tài lộc lớn không ngờ
Gia đình hạnh phúc vui đoàn tụ
Sự nghiệp rỡ ràng thỏa ước mơ
Thư thái tinh thần tâm sáng tỏ
Dạt dào tình cảm nghĩa vô bờ
Quê hương khởi sắc say ngòi bút
Thôi những trầm luân hết mỏi chờ !

Thuận. 06/02/2019.

★ Bài hoạ khác của Cao Linh Tử

Đáp Tạ

Thật là quý hóa những câu thơ
Gởi vận vì nhau thật bất ngờ
Rạch nhỏ dòng kia tuy đã cạn
Tình thân ý nọ đẹp như mơ
Chào xuân hoa nở trên đầu bút
Mến bạn lòng vui chẳng bến bờ
Hạnh phúc là đây dù bé nhỏ
Cho người may mắn đã thôi chờ.

Cao Linh Tử
6/2/2019

★ Bài hoạ khác của Nguyễn Thị Trọng

Chúc xuân đại huynh

Đẹp thay câu chúc viết bằng thơ!
Quà tặng đầu xuân đến bất ngờ.
Thịnh phát lộc tài như sở nguyện.
Ấm êm gia đạo vẫn thường mơ.
Cám ơn chỉ dẫn bao vần điệu.
Giải trí tìm quên những bến bờ.
Đồng cảm chi giao và ngưỡng mộ.
Chúc huynh thoả ý những mong chờ!

Nguyễn Thị Trọng

★ Bài hoạ của Dung Nguyên

XUÂN HẠNH PHÚC

Kỷ hợi khai vần xõa ý thơ
Tìm câu đủ nghĩa khó ai ngờ
Ươm nhành quất đỏ say chiều hẹn
Lựa cánh mai vành ủ ngõ mơ
Lý tưởng xanh mầm luôn trĩu hạt
Tình yêu biếc nhụy chẳng xa bờ
Mùa xuân ấp ủ niềm hi vọng
Thỏa nỗi lòng yêu hạnh phúc chờ!

8/2/2019
DUNG NGUYÊN

07 tháng 2 2019

Xuân Lận Đận

<D.451~Thơ Xuân> 



XUÂN LẬN ĐẬN

Bệnh ủ ù lì do LẬN ĐẬN
Mon men Lão Tết đến thêm GẦN
Nhìn đau đáu dõi năm CÙNG-TẬN
Cảm xốn xang chìm thức NỘ-SÂN
Cuộc sống khiên đầy khiên tủi HẬN
Dân tình gánh nặng gánh còm THÂN
Đông tàn cứ diễu trò luôn BẬN
Sợ hãi vui mừng cũng đáo XUÂN.

Mai Thắng - 190207

★ Bài xướng của Phương Lê (FB Lê Xuân Phượng)

XUÂN LẦN ĐÂN

AI KÊU, ai gọi cứ lần ĐÂN
LÉN LÚT mon men tiến đến GẦN
CUỐC KHÓC đau thương nhìn kiếp TẬN
CÀY THAN thảm não thấy đời SÂN
XUÂN VỀ cả đống bần dân HẬN
TẾT ĐẾN hàng đàn nhũng lại THÂN
TẾT NHẤT mười năm về một BẬN
MAY RA hy vọng tớ còn XUÂN!

MA 060219
Tú Ghẻ-Trạng Lụi

Đoản Khúc Ngày Xuân

<F.245~Bốn Mùa>


Bướm đỗ

Vẩy điệu mơ màng đỗ lắt lay
Ô kìa lũ bướm dịu dàng bay
Từng đôi cánh mỏng êm đềm vỗ
Giữa bội hoa vàng ngả rất hay

Mai Thắng – 190206

★ Bài xướng của Kim Oanh

Xuân Chờ…

Xuân về đầu ngõ có ai hay
Má phấn môi hồng hoa thắm bay…
Biết chăng một đóa riêng góc nhỏ
Đợi cánh si tình bươm bướm lay?!

Kim Oanh
Xuân Melbourne 2015



Mai vàng

Giao thừa một nhánh mai
Rực rỡ sắc vàng sai
Thềm cổng bừng hoa đẹp
Ngày xuân trải mấy nay

Mai Thắng – 190206

★ Bài xướng của Quên Đi

Nhánh mai mùng 1

Mùng một tết hôm nay
Nở đều trên Bonsai
Đua chen khoe nét đẹp
Duyên dáng cành hoa mai.

Quên Đi

X85. Khai Bút Đầu Năm

<D.449~Thơ Xuân>




KHAI BÚT ĐẦU NĂM

Mở mắt nhìn ra dỗ phận nghèo
Thay loài khỉ chó … cũng là heo
Thằng qua khệ nệ tìm duyên ấm
Đứa tới vênh vang chuyển kiếp bèo
Đất Lạc Hồng mê nòi Việt sướng
Trời Nam Mỹ dậy khúc Vê* reo
Dang tay khí phách mà đi bão
Để quãng đời trôi đọng tiếng vèo.

Mai Thắng – 190206

* Vê : Venezuela

★ Bài hoạ của Peter Lý

KHAI BÚT ĐẦU NĂM

Cũ qua mới lại mãi thêm nghèo
Chưa thể chối từ phận chó heo
Bám đít khuyển quân mong tí phẩn
Ôm chân Bất Giới mộng chia bèo
Mất nhà mất đất to mồm réo
Canh cặn cơm thừa vỗ ngực reo
Vênh váo tưởng mình nay đắc đạo
Chấn Hưng lò mổ kiếm đưa vèo

Peter Lý

★ Bài hoạ của Mỹ Bình

ĐỪNG MONG

Đừng mong mọi chỗ hết dân nghèo
Dẫu khỉ dê rồng hoặc chó heo....
Lỡ phải vô rồi mang kiếp bọt
Thì không thoát được nỗi thân bèo ...
Thằng Nô lỡm chủ cười him mí
Thị Kính hàm oan ngã cổ vèo
Mấy ả vô tình qua ngõ quẹo
Nhìn ngang sướng bụng đã mồm reo!

MB 11/2/2019

★ Bài hoạ của Phương Lê

KHAI HOẢ

LÀM SAO tưởng tượng số ta NGHÈO?
BỆNH ĐÃ quá giàu lại lắm HEO
GIÀU BỆNH, ê răng, ngơ xực KẸO
LẮM HEO, mỏi miệng, chả xơi BÈO
BIỂN ĐÔNG, dân Việt tha hồ RÉO
NAM MỸ, người Vê* mặc sức REO
DŨNG KHÍ cả đời nay đã HÉO
MAY RA còn một tiếng kêu "VÈO!"

MA 110219
Tú Ghẻ-Trạng Lụi

* Vê = Venezuela

★ Bài hoạ của Mai Văn Thành

LO HOÀI!

Năm mới mong qua nhũng nhiễu... nghèo !
Dẹp loài ăn tạp dữ hơn heo.
Cẩu lui nặng gói tiền vàng tẩu
Hợi đến oằn tay "đô" bạc theo...
Anh Nhật Bản lo mòi mượn nữa
Bạn Phương Tây ngán món vay lèo.
Xuân về sợ chất thêm chầu nợ
Dai đẳng sao hoài... gánh vẫn đeo !

Mai Thành.
----------------------------


★ Bài hoạ của Mộng Bình

ĐAU XÓT

Đau xót thương thay đất nước nghèo
Dân tình khốn khổ nhục như heo
Bao xuân tụt hậu rày chưa đổi
Nay tết vẫn cam chịu phận bèo
Mất đất dân oan tha hồ réo
Quan tham nhũng dựng biệt phủ vèo
Hỏi rằng công lý rày đâu tá?
Lợi ích bạo quyền đấu đá leo.

Mộng Bình

C. Bồng Lai Không Xa

<C.016><Giai Thoại Văn Chương> 
 
Đề tài: BỒNG LAI KHÔNG XA 
Biên soạn: ĐỖ CHIÊU ĐỨC



        Tống Kỳ 宋祁 (998-1061), người đất An Châu (tỉnh Hồ Bắc hiện nay), người cao ráo đẹp trai, phong lưu tuấn tú, dáng người tiêu sái phiêu diêu như thần tiên giáng hạ. Lúc nhỏ nhà nghèo, gia đạo khốn khó, nhưng rất cố gắng và chăm chỉ học hành. Theo Trần Sử của Vương Đắc Thần ghi:

        Tống Giao 宋郊 (sau đổi là Tống Tường 宋庠 ) cùng em là Tống Kỳ 宋祁. lúc nhỏ cùng học ở đất An Lục. Cuộc sống của anh em rất chật vật, nghèo khó . Một năm, vào tiết Đông Chí, Tống Kỳ mời các bạn đồng học cùng ngâm thơ uống rượu và cười nói với bạn bè rằng :" Tiết Đông Chí mà không tiền mua rượu, tôi phải cạy những hoa văn trang trí trên bao kiếm của Tổ tiên để lại đem bán đi được hơn lượng bạc để mua rượu và đồ nhấm. Đông Chí thì ăn bao kiếm, đến Tết chắc phải ăn cả cây kiếm luôn !". Bạn bè cùng cười ồ, nhưng đều cảm động cho sự khẳng khái của anh ta.

        Năm thứ hai Thiên Thánh đời Tống Nhân Tông (1024), Tống Kỳ cùng anh là Tống Tường đều cùng đậu Tiến Sĩ. Khi điện thí Tống Kỳ được chấm đậu hạng nhất, tức đậu Trạng Nguyên. Nhưng lúc bấy giờ, thái hậu Chương Hiến đang phụ chính cho là : Anh em cũng ngang tài nhau, nếu để cho em đứng trên anh thì không hợp lễ tiết cho lắm, bèn chấm Tống Tường đậu Trạng Nguyên, còn Tống Kỳ xuống Tiến Sĩ hạng mười (?). Vì hai anh em đậu cùng khoa và đều họ Tống, nên các đồng liêu mới phân biệt gọi Tống Tường là Đại Tống, còn Tống Kỳ là Tiểu Tống.

        Tống Kỳ làm quan rất công minh chính trực, không về theo phe phái nào cả. Tất cả những chức vụ mà ông đãm nhiệm, bất luận là về mặt chính trị, văn hóa, nội chính trị an ... đều có thành tích rất tốt, vì thế mà con đường hoạn lộ rất thuận lợi suông sẻ một lèo lên đến chức Hàn Lâm Học Sĩ rồi Công Bộ Thượng Thơ.

 
       Tương truyền, khi đang làm Hàn lâm Học Sĩ ở Kinh Thành, một hôm đang lang thang trên đường phố, bất ngờ có một đoàn xe ngựa của hoàng tộc từ phía trước đi đến với một đoàn Ngự lâm quân đi trước mở đường. Tất cả bá tánh kể cả quan viên lớn nhỏ đều phải đứng nép vào hai bên lề đường, Tống Kỳ cũng đứng nép vào bên đường mà nhìn. Chợt trong một cung xa chạy ngang qua nghe có tiếng gọi: "Tiểu Tống !". Tống Kỳ giật mình nhìn lại thì thấy một bàn tay ngọc đang buông rèm xe xuống và thấp thoáng còn ẩn hiện một gương mặt thật đẹp của một cung nhân. Chàng Hàn Lâm Học Sĩ trẻ trung như bị hớp hồn, đứng ngẩn ngơ bên đường nhìn theo đoàn xe ngựa đi mất hút trong đám bụi mù mà lòng vẫn còn bàng hoàng ngơ ngẩn. Khi về đến phủ Hàn Lâm mà lòng vẫn cứ vấn vương vương vấn mãi hình bóng của ai kia: Nàng là ai, sao nàng lại biết ta là Tiểu Tống, nàng đã để mắt xanh đến ta từ bao giờ, sao ta không hề biết ? ... Qủa là " Ngổn ngang trăm mối bên lòng, nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình", chàng bèn lấy giấy bút ra viết nên bài từ " Giá Cô Thiên 鹧鸪天 " tuyệt diệu như sau :

畫轂雕鞍狭路逢, Họa cốc điêu yên hiệp lộ phùng,
一聲腸断绣帘中。 Nhất thanh trường đoạn tú liêm trung.
身無彩鳳雙飛翼, Thân vô thái phụng song phi dực,
心有靈犀一点通。 Tâm hữu linh tê nhất điểm thông.
金作屋,玉為籠, Kim tác ốc, Ngọc vi lung.
車如流水馬游龍。 Xa như lưu thủy mã du long,
劉郎已恨蓬山遠, Lưu Lang dĩ hận Bồng sơn viễn,
更隔蓬山幾萬重。 Cánh cách Bồng sơn kỷ vạn trùng !

Có nghĩa : 
Xe vua trạm trổ đẹp qua đường,
Một tiếng ai kêu luống đoạn trường.
Hận không đôi cánh như chim phượng,
Lòng tựa Linh tê đã vấn vương.
Nhà vàng đó, lầu ngọc suông,
Ngựa xe như nước chạy bon bon,
Chàng Lưu vốn hận Bồng Lai cách,
Lại cách Bồng Lai mấy vạn đường !


        Thật ra thì bài từ nầy cũng không phải là một tuyệt tác gì, chỉ sử dụng 4 câu trong hai bài Vô Đề của Lý Thương Ẩn, và câu "Xa như lưu thủy mã như long" trong bài Vọng Giang Nam của Lý Hậu Chủ, rồi viết thêm vài câu theo ý của tác giả cho đúng với hoàn cảnh trước mắt, chắp vá lại mà thành. Nhưng ... nó lại rất hay, rất sát sao với tình ý của tác giả lúc bấy giờ với câu chuyện tình giữa một vị Hàn Lâm với một cung nữ trong cung vua, nên bài từ nổi tiếng rất nhanh và được các ca nhi phổ nhạc hát khắp kinh thành. Chẳng bao lâu sau, bài từ được truyền vào đến hoàng cung, vua Tống Nhân Tông rất lấy làm lạ khi biết được viêc nầy, bèn cho tập hợp tất cả đoàn xe ngựa hôm đó lại để hỏi tra xem, cung nữ nào ngồi ở xe nào đã gọi tên " Tiểu Tống " ? Một cung nhân trẻ đẹp đã thẹn thùng đứng ra nhận tội. Vua hỏi làm sao biết được " Tiểu Tống "?thì nàng cung nữ tâu rằng : Trước đây, khi thị yến trong cung với các quan tân khoa, đã nghe mọi người gọi là Tiểu Tống, mấy hôm trước khi đi ngang qua phố tình cờ vén rèm thấy được nên mới buộc miệng gọi một tiếng " Tiểu Tống " mà thôi !

        Nhà vua lặng thinh chẳng nói gì, ra lệnh cho đòi Hàn Lâm Học Sĩ Tống Kỳ vào cung. Tống kỳ rất lấy làm lạ không biết là chuyện gì. Nhà vua thiết yến khoản đãi, trong buổi tiệc lại cho con hát hát bài "Giá Cô Thiên" của Tống Kỳ đã làm để tỏ tình với cung nữ. Tống Kỳ nghe xong, mồ hôi ra đầy mình, sợ quá, vội vàng quỳ xuống thỉnh tội. Nên biết rằng dưới chế độ phong kiến, các quan viên nào dám cả gan ghẹo đến người của hoàng tộc, nhất là các cung nữ của nhà vua, thì tội khi quân sẽ bị chém đầu như chơi. Nhưng ...

        Tống Nhân Tông là một ông vua rất khoan dung hòa ái, lại yêu thích văn chương, nên vội vàng đở Tống Kỳ dậy, cười xòa mà bảo rằng : "Bài từ của ái khanh viết là : 劉郎已恨蓬山遠 Lưu Lang dĩ hận Bồng sơn viễn, 更隔蓬山幾萬重 Cánh cách Bồng sơn kỷ vạn trùng."Bồng Lai" qủa thật rất xa xôi, nhưng hôm nay, trong cung nầy của Trẩm "Bồng Lai" của khanh ở rất gần nơi đây !". Nói đoạn, nhà vua bèn cho đòi nàng cung nữ hôm nọ đến và hạ chỉ : Ban tặng nàng cho Tống Kỳ, kết thúc cho một cuộc nhân duyên rất nên thơ và có hậu.


        Truyện được lan truyền ra ngoài rất nhanh, tạo thành một giai thoại văn chương và một chuyện tình đẹp hiếm có lúc bấy giờ, nhờ vào lòng khoan dung của một vị vua nhân từ : Tống Nhân Tông. Truyện vừa đẹp vì tình yêu đôi lứa, vừa đẹp vì cái nghĩa quân thần của nhà vua và Tống Kỳ. Dân chúng ở kinh thành lúc bấy giờ thường kháo nhau rằng : Chỉ cần một bài từ, chỉ cần có hai câu thơ ao ước đến được cỏi Bồng Lai, Tống Kỳ đã bồng được nàng cung nữ đẹp đẽ từ cung vua về nhà mình !

        Riêng Tống Kỳ, ngoài tài văn thơ ra, ông còn là một nhà viết sử nổi tiếng khi cùng với Âu Dương Tu cùng nhau kiểu chỉnh lại Cựu Đường Thư, và mất mười mấy năm để viết nên bộ TÂN ĐƯỜNG THƯ gồm 225 quyển. Ông còn nổi tiếng với bài từ " Ngọc Lâu Xuân 玉樓春 " trong đó có một câu rất hay là : 
紅杏枝頭春意鬧  - Hồng hạnh chi đầu xuân ý náo - có nghĩa "ý xuân đang reo vui ở trên đầu cành hoa hồng hạnh", nên Tống Kỳ còn được người đời gọi là "Hồng Hạnh Thượng Thư".

Đỗ Chiêu Đức