Nhãn

21 tháng 1 2021

C. Vô Đề 2 - Lý Thương Ẩn

<C.049><Dịch Hán thi>

VÔ ĐỀ 2 - LÝ THƯƠNG ẨN (813-858)



★ Nguyên bản 

无题                       
相見時難別亦難      
東風無力百花殘      
春蠶到死絲方盡      
蠟炬成灰淚始乾      
曉鏡但愁雲鬢改      
夜吟應覺月光寒      
蓬萊此去無多路      
青鳥殷勤為探看。
李商隱                              

★ Phiên âm

VÔ ĐỀ
Tương kiến thì nan biệt diệc nan
Đông phong vô lực bách hoa tàn
Xuân tàm đáo tử ti phương tận
Lạp chúc thành hôi lệ thủy can
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ
Thanh điểu ân cần vị thám khan.
LÝ THƯƠNG ẨN 

★ Dịch nghĩa 

Vô đề  
Gặp được nhau đã khó, chia lìa nhau lại càng khó hơn
Gió xuân không đủ sức, để trăm hoa phải tàn úa
Con Tằm xuân đến chết mới nhả hết tơ lòng
Ngọn nến tàn thành tro mới khô những giọt lệ nến
Sớm mai soi gương mới buồn cho tóc mây đã thay đổi
Ban đêm ngâm thơ mới chợt nhận ra ánh trăng lạnh lẽo
Đường đến Bồng Lai không có nhiều lối
Ân cần nhờ chim xanh dọ hỏi dùm

★ Dịch thơ 

VÔ ĐỀ 2

Khó gặp nên thời khó biệt nhau
Gió xuân lả cánh để hoa nhàu
Con tằm kiệt sức đường tơ cạn
Ngọn nến khô ngòi mắt lệ lau
Chải tóc nhìn gương buồn chuyển mái
Ngâm thơ cảm nguyệt lạnh phai màu
Bồng Lai dẫn đến không nhiều lộ
Mượn lũ chim rừng hỏi biết mau.

Mai Thắng

E12. Đợi Phút Tìm Nhau

<E.12~Cuộc Sống>


1. ĐỢI PHÚT TÌM NHAU

Mai này ắt hẳn nghĩ về sau
Để bóng thời gian vẫn đậm màu
Gửi lại tình yêu miền kí vãng
Mang gìn kỷ niệm những niềm đau
Lời thơ trắc ẩn nguôi hồn quạnh
Bản nhạc trầm tư ngẫm giấc nhàu
Nếu phải còn duyên thì sẽ nguyện
Ôm lòng mãi đợi phút tìm nhau.

Mai Thắng (190831)

-----------------------------

2. NIỀM THƯƠNG LỐI NHỎ

Lối nhỏ thu về dịu bữa nay
Gìn men gợi tưởng nhớ nhung đầy
Hương còn tản mạn khơi dòng chảy
Mộng vẫn êm đềm thả mắt say
Kỷ niệm đong tràn trao mấy dãy
Thời gian lắng đọng lẫn bao ngày
Niềm thương gửi trọn ân tình ấy
Thỏa chuỗi lay lòng quyện gió ngây

Mai Thắng (190903)

-----------------------------

3. GHÉP MẢNG HƯƠNG NỒNG

Ghép mảng hương nồng vững tạc in
Từ trong não trạng kết mơ gìn
Tâm đầy lửa nhiệt lay bầu huyết
Nghĩa vẹn giao hòa trải đức tin
Chọn những niềm yêu đồng hướng gửi
Cài muôn ý niệm mở khung nhìn
Tay chìa nhấp thưởng đường thi tập
Tửu ấm thanh lòng mãn nguyện xin

Mai Thắng (190903)

-----------------------------

4. Ý NIỆM GIỐNG NÒI

CÔNG khai lịch sử trấn binh phòng
ĐỨC tạo vinh hiền rạng rỡ trong
TIỀN kiếp lầm sâu truyền lệ thuộc
NHÂN căn ám thị biện long dòng
XIN dân chủ sống tâm hòa hợp
TẠC tự do thời trí điểm đong
DẠ chắc muôn người ca chính nghĩa
MẪU GƯƠNG TỔ PHỤ NGUYỆN GHI LÒNG

Mai Thắng (190908)

-----------------------------

5. NHẪN NHỦ HÒA VUI

Nhẫn nhủ hòa vui tránh tạo phiền
Cho dù gặp cảnh chớm khùng điên
Ngày lo tỉnh trí làm xong việc
Tối giữ bền tâm thả niệm thiền
Tự cảm thiên đường luôn ý nghĩ
Duy trì cõi tịnh cũng thần tiên
Chờ cơ giải thoát bình yên đợi
Quả phúc rồi sau sẽ ngộ điền.

Mai Thắng (190928)

E11. Sân Bóng

<E.11~Bóng Đá>


1. SÂN BÓNG

Bước chạy anh hào giẫm cỏ tranh
Người buông kẻ nhận lấn chen giành
Phân làn chiến trận tràn công đả
Định cõi sân nhà gắng thủ canh
Quả bóng xoay tròn khiêu vũ thuật
Giày thô biến ảo triệt khung thành
Chờ trông thắng bại cùng đi bão
Những khúc yêng hùng hả dạ nhanh.

Mai Thắng (191214)

-----------------------------

2. ĐỪNG GIẬN

Nàng ơi đừng giận với đừng phi
Trận bóng dù sao cũng chút gì
Nọ cú tung chân đầy điệu hỉ
Kia màn sút phạt khó mần chi
Nhìn xem thế thủ lo nhiều nhỉ
Hãy ngắm hàng công biến diệu kì
Ấy đấy gaul rồi ôi khoái chí
Còi tan trận thổi sẽ rồi đi!

Mai Thắng (160629)

-----------------------------

3. PHẠT ĐỀN

Cân bằng thế trận giữa hai bên
Giải quyết hơn thua chấm phạt đền
Cầu thủ nhùng nhằng xoay quả đá
Thủ môn nhún nhảy dọa đường lên
Đầu căng mắt nhắm tung bừa phứa
Não rối giò đơ sút nhẹ sền
Một phút nguyện cầu đầy cảm xúc
Thời cơ lão luyện cũng xui hên

Mai Thắng (160703)

-----------------------------

4. TRẬN CHUNG KẾT

Những cuộc so tài quanh sắc áo
Những người trẻ tuổi thực anh hào
Dày công hợp dũa nên đồng thuận
Luyện chí chung mài đợi gửi trao
Thủ lĩnh cao cơ nguồn thắng lợi
Thành viên nhiệt huyết cảnh tuôn trào
Bước chân khập khiễng niềm mơ lớn
Trí tuệ dung hòa vượt đỉnh cao!

Mai Thắng (160712)

20 tháng 1 2021

E10. Tình Thu Lạc Mất

<E.10~Vần Thu Cảm>


1. Tình Thu Lạc Mất

Tình thu tất bật vẫn dênh dàng
Những giọt ngâu buồn đổ ngấm loang
Chạnh ngắm giàn khoan rời lãnh hải
Đành rơi chữ bạn khắc khung vàng
Bao thời biểu quyết ân dành hậu
Mấy thuở tôn thờ nghĩa tạc hoang
Cảm thán lòng thâm vồ đoạt giữ
Niềm tin lạc mất cõi thiên đàng.

-----------(190922)----------- 


2. Những Ngày Cuối Thu

Những trận ngâu buồn đổ tái tê
Dường thu lặng lẽ chuyển thay nề
Thời đang đợt bão trùm u ám
Nắng lịm bên trời rũ thảm thê
Lá vẫn rơi đầy che trực cảm
Đường luôn rải nhộn khắp tư bề
Đông rồi sẽ tới vòng nhân quả
Đợi mãi xuân dành mảnh đất quê.

-----------(190929)----------- 


3. Ngày Thu Khắc Khoải

Miền quê một kiếp lả thân hời
Vọng mãi trong lòng giấc chả vơi
Nẻo hứa say hồn luôn nghiệt ngã
Đường nhen thử lượt cũng tơi bời
Thương vùng đất khổ tràn mê ngự
Cảm khúc ca buồn nhiễm dạo khơi
Những khoản đời vui còn được mấy
Ngầm đau cuộc thế chửa xoay thời

-----------(190929)----------- 


4. Lắng Buổi Thu Tàn

Mùa qua lá rụng khẽ đưa vèo
Cỏ mặc nhiên vờn nắng duỗi theo
Lặng lẽ vườn hoa bùng cảnh sắc
Thờ ơ khúc nhạc trỗi lưng đèo
Mưa hoài rớt hạt ngâu thầm nhủ
Gió vẫn trêu mành ngọn khản reo
Những áng mây chiều trôi mệt mỏi
Hồn thu lạc nẻo gắng bươn trèo.

-----------(191107)----------- 


5. Lắng Tiếng Thu Rơi

Cảnh diễn ra bày một dáng thu
Trời trong chẳng gợn chút mây mù
Hanh vàng nắng đổ tia kiều dưỡng
Ngát đỏ hoa bùng mộng viễn du
Gạn những niềm đau dần thức tỉnh
Cài khuông ý niệm giải thâm thù
Bao giờ tỏ được nguồn chân lý
Dõi lá sang mùa cảm điệu ru.

-----------(191125)-----------

 Mai Thắng  

19 tháng 1 2021

C. Khách Chí - Đỗ Phủ

<C.048><Dịch Hán thi>

KHÁCH CHÍ - ĐỖ PHỦ (712-770)



★ Nguyên bản 

客至                                  
舍南舍北皆春水, 
但見羣鷗日日來。 
花徑不曾緣客掃, 
蓬門今始爲君開。 
盤飧市遠無兼味, 
樽酒家貧只舊醅。 
肯與鄰翁相對飲, 
隔籬呼取盡餘杯。 
杜甫                                  

★ Phiên âm

KHÁCH CHÍ
Xá nam xá bắc giai xuân thủy
Đản kiến quần âu nhựt nhựt lai
Hoa kính bất tằng duyên khách tảo
Bồng môn kim thủy vị quân khai
Bàn tôn thị viễn vô kiêm vị
Tôn tửu gia bần chỉ cựu phôi
Khẳng dữ lân ông tương đối ẩm
Cách ly hô thủ tận dư bôi.
ĐỖ PHỦ

    Mùa xuân năm Thượng Nguyên thứ hai đời Đường (761), Đỗ Phủ đã năm mươi tuổi. Lúc bấy giờ ông đang định cư nơi đất Thục với một ngôi thảo đường (nhà cỏ) ở đầu các khe suối vùng ngoại ô của Thành Đô. Sau những năm lưu ly loạn lạc, đây là thời gian ông được sống an nhàn nơi thảo dã. Bài KHÁCH CHÍ được làm trong khoảng thời gian nầy.

★ Dịch nghĩa 

Khách đến 
Phía nam phía bắc nhà tôi trọ đều là nước xuân,
Có những con chim hải âu ngày ngày bay đến.
Hoa rụng đầy lối mòn sẽ được quét sạch vì có khách;
Cửa cỏ bồng nầy hôm nay mới được mở ra đón bạn.
Mâm thức ăn ở xa chợ nên không có đủ vị ngon;
Rượu bày ra của nhà nghèo là loại cũ ủ để dành;
Nếu bạn đồng ý cùng uống vài ly với ông hàng xóm;
Tôi ra rào gọi ông ta cùng uống hết rượu thừa này.

★ Dịch thơ 

KHÁCH ĐẾN 

Thuê nam trọ bắc cũng đầy xuân
Lũ hải âu siêng đến đảo quần
Dẹp ngõ dàn hoa chào mặc khách
Khai đường mở cửa đón người thân
Mâm bàn cách chợ không nhiều món
Hũ rượu hàn gia ngát cảnh bần
Để gọi bên rào ông xóm ghé
Tay chuyền nốc cạn chén thừa khuân.

Mai Thắng 
(190924)

E09. Nắng Bủa Thu Vàng

<E.09~Vần Thu Cảm>


1. Nắng Bủa Thu Vàng

Nắng bủa THU vàng rực rỡ hoa
Hồn THU thỏa ước gợi duyên hòa
Màn thi vị đẫm dìu THU xướng
Cảnh sắc THU gầy bật ngữ ca
Quyện ngõ êm đềm THU khách thể
Chào THU phảng phất giậu sân nhà
Mây mừng gió giỡn THU hiền dịu
Nắng bủa THU vàng rực rỡ hoa

-----------(190822)-----------

2. Chạnh Tiếng Thu Xưa

Vẫn nặng oi nồng chuyển tiết hanh
Vài cơn gió động thoảng lay mành
Hồ in mặt nước loang toàng tỏa
Liễu rủ ven bờ sóng sượt quanh
Gợi bóng trời quang lừa lĩnh cảm
Nhìn muôn thảm họa lấn chen thành
Quê nghèo khắc mảnh phông đùn vỡ
Dữ kiện đau lòng hủy nét tranh.
-----------(190829)-----------

3. Tự Tình Mùa Thu

Hàng hiên nhẹ điểm ánh trăng mờ
Bão tố không làm lạc khoảng mơ
Mở khúc ca trù ru mộng diễn
Chèn âm điệu oán ngỏ thương chờ
Duyên đời đã trải thời khăng khít
Ý niệm luôn quàng nỗi thẩn thơ
Ngọn gió lay mành rơi huyễn ảo
Cầu nhân thế trọn những tôn thờ
-----------(190904)-----------

4. Miền Quê Vào Thu

Hạ đã vào thu chuyển sắc màu
Bao ngày tháng đẫy cận kề nhau
Đồng chan nắng hạn ươm đòng nõn
Gió rảo triền sông duỗi ngọn nhàu
Ủ ấp mưa nguồn vun lãnh địa
Ôm chầm khí vận thẳng hàng cau
Chìm trong khát vọng vùng quê mở
Những điệu còi ngân vẳng tiếng tàu.
-----------(190908)-----------

5. Chiều Thu Ngắm Biển

Chiều u tịch ngắm biển quê mình
Ẩn hiện ngư thuyền bóng hãi kinh
Dãi sóng binh quyền luôn cợt nhả
Bày cơ thế trận chẳng công bình
Lòng dân rõ thấu trò nghênh đoạt
Cảm thức tranh đòi lẽ tuyệt sinh
Lịch sử lưu truyền vai chiến hữu
Nghìn năm Bắc thuộc giễu ân tình.
-----------(190921)-----------

Mai Thắng 

Những Nụ Hôn

<D.660~Thơ Vui>



NHỮNG NỤ HÔN

Ướm những lần hôn quả diệu kì
Như dòng điện kích nỗi cuồng si
Vòng tay trói chặt vùng phong toả
Chót lưỡi dần xoay điểm ghẹo ghì
Thụ cảm len vào sâu cõi thức
Mê chìm thẩm thấu động bờ mi
Hồn ngơ ngẩn lạc miền hoang dã
Ướm những lần hôn quả diệu kì

Mai Thắng
(190219)

Thơ Đường Ngũ Độ Thanh

<D.659~Xã Hội> 


THƠ ĐƯỜNG NGŨ ĐỘ THANH

Ngồi buồn bắt sáu thằng thanh
Viết thơ ngũ độ tỏ tình cùng em
Sáu thằng năm cái ba rem
Chèn trên lọt dưới… bung hèm thơ ơi!


1.
Ôi dào ngũ độ … sáu thằng thanh
Hán ngữ mần sao … thật chửa sành
Lũ trắc ken từ chen chọn đủ
Hai bằng thiểu vận xếp kề quanh
Còn e lỗi bệnh theo dòm ngó
Vẫn ngại lời thơ mếu dở hành
Đọc thử bài xong … chừng khoái đã
Nghe dòng nước chảy giữa triền xanh
2.
Nghe dòng nước chảy giữa triền xanh
Õng ẹo làm duyên điểm dáng lành
Bảy chữ tròn câu dành hiến bạn
Năm vần đủ bộ mến chờ anh
Bường xuôi vận trắc tra từ hảo
Diễn đạt tình chân tỏ ý thành
Tịnh dưỡng tâm hồn nuôi sảng khoái
Dâng lòng mỹ cảm sáu nàng thanh.

Mai Thắng
(190217)

14 tháng 1 2021

C. Thơ Nguyễn Trãi – Phần A

<C.047><Dịch Việt thi>

NGUYỄN TRÃI - 
Phần A: TRƯỚC KHI THÀNH DANH
(Thời Hậu Lê VN - Đỗ Chiêu Đức sưu tầm)




 Bài 1. THÍNH VŨ

1.1. Nguyên bản 

聽雨                          
寂寞幽齋裏,      
終宵聽雨聲。    
蕭騷驚客枕,      
點滴數殘更。      
隔竹敲窗密,     
和鐘入夢清。      
吟餘渾不寐,      
斷續到天明。      
阮廌                              

1.2. Phiên âm

THÍNH VŨ 
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu hao kinh khách chẩm
Điểm trích sổ tàn canh
Cách trúc xao song mật 
Hoà chung nhập mộng thanh
Ngâm dư hồn bất mị
Đoạn tục đáo thiên minh.
NGUYỄN TRÃI 

1.3. Dịch nghĩa 

Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.

1.4. Dịch thơ

NGHE MƯA

Thư phòng đêm tỉnh mịch
Nghe rả rích canh dài
Khách ngậm buồn da diết
Mưa tuôn đổ miệt mài
Xạc xào bên bụi trúc
Vang vọng giữa màng tai
Thao thức hoài không ngủ
Nhịp đều tận ánh mai

Mai Thắng  
190930

---------------------- 

 Bài 2. KÝ HỮU

2.1. Nguyên bản 

寄友                                     
半生世路嘆屯邅    
萬事惟應付老天    
寸舌但存空自信    
一寒如故亦堪憐    
光陰焂忽時難再     
客舍凄涼夜似年     
十載讀書貧到骨     
盤惟苜蓿坐無氈。 
阮廌                                   

2.2. Phiên âm 

KÝ HỮU 
Bình sinh thế lộ thán truân chiên
Vạn sự duy ưng phó lão thiên
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín
Nhất hàn như cố diệc kham liên
Quang âm thúc hốt thời nan tái
Khách xá thê lương dạ tự niên
Thập tải độc thư bần đáo cốt
Bàn duy mục túc, toạ vô chiên
NGUYỄN TRÃI 

2.3. Dịch nghĩa 

Bình sinh đường đời nhiều vất vả quá thể
Vạn việc chỉ nên phó cho trời già
Tấc lưỡi hãy còn, tưởng cũng tự tin được
Cứ một cảnh nghèo như cũ thật đáng thương
Ngày tháng (sáng tối) đi qua vùn vụt khó mà trở lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như cả một năm
Mười năm đọc sách (học hành) mà nghèo đến tận xương
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu. 

2.4. Dịch thơ 

GỬI BẠN

Sau loạn người rơi tựa lá hồng
Chân trời tin nhạn hút vời trông
Ba canh đắm mộng hồn quê dõi
Trùng dế kêu vang bốn vách lồng
Đỗ lão tâm tình hương Vị Bắc
Quản Ninh di trú khách Liêu Đông
Việt Trung ước được lời thăm hỏi
Lời đáp sinh nhai quyện cỏ bồng.

Mai Thắng  
190930

------------------------ 

 Bài 3. LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC

3.1. Nguyên bản 

亂後到崑山感作      
一別家山恰十年      
歸來松菊半翛然      
林泉有約那堪負      
塵土低頭只自憐      
鄉里纜過如夢到      
干戈未息幸身全      
何時結屋雲峰下      
汲澗烹茶枕石眠      
阮廌                                  

3.2. Phiên âm

LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên
Hương lý tài qua như mộng đáo
Can qua vị tức hạnh thân tuyền
Hà thời kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên
NGUYỄN TRÃI 

3.3. Dịch nghĩa 

Sau loạn về Côn Sơn cảm tác
Rời vùng quê miền núi nầy thoắt cái đã mười năm rồi.
Nay về thăm lại tùng, cúc đã tiêu điều quá nửa.
Đã có hẹn ới dòng suối nơi đây thì không nở phụ ước,
Cúi đầu nhìn đất quê mà thương thân mình lưu lạc,
Làng xóm thoáng qua như trong giấc mộng,
Chiến tranh còn dai dẵng, may mà thân được bảo toàn,
Bao giờ mới dựng một mái tranh dưới mây gió nầy,
Lấy nước suối pha trà và gối đầu lên tảng đá mà ngủ.

3.4. Dịch thơ

SAU LOẠN VỀ CÔN SƠN

Thắm thoắt mười năm biệt cố hương
Cúc tùng quá nửa nhuốm thê lương
Núi rừng hẹn ước ngày quay lại
Mảnh đất đê đầu mối cảm thương
Thôn xóm vờn qua như giấc mộng
Chiến tranh còn giữ tấm thân vương
Bao giờ kết thúc trời mây tạnh
Gối đá nằm ru ngủ dưới sương.

Mai Thắng  
141114

----------------------

 Bài 4. QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC

4.1. Nguyên bản 

归昆山舟中作        
十年飄轉嘆蓬萍, 
歸思搖搖日似旌。 
幾托夢魂尋故里, 
空將血淚洗先塋。 
兵餘斤斧嗟難禁, 
客裡江山只此情。 
鬱鬱寸懷無奈處, 
船窗推枕到天明。 
阮廌                                  

4.2. Phiên âm 

QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình
Quy tứ dao dao nhật tự tinh
Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý
Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh
Binh dư cân phủ ta nan cấm
Khách lý giang sơn chỉ thử tình
Uất uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
NGUYỄN TRÃI

4.3. Dịch nghĩa 

Mười năm phiêu dạt như cỏ bồng cánh bèo
Ý muốn trở về ngày nào cũng nao nao (như cờ dựng trong trí)
Bao lần gửi hồn trong mộng về làng cũ
Mang bằng tưởng tượng huyết lệ về tẩy mộ tổ tiên
Than ôi, sau loạn lạc làm sao cấm cản được vụ búa rìu?
Trong cảnh khách này chỉ có mối tình ấy với giang sơn
Tấc lòng u uất thật khó xử
Song cửa thuyền lay gối mãi đến sáng trời.

* Côn Sơn: Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.

4.4. Dịch thơ

THUYỀN VỀ CÔN SƠN

Mười năm phiêu dạt cảnh bồng bềnh
Kiếp sống giang hồ phận nổi nênh
Gửi mộng hồn về quê thất tán
Gìn tiên mộ rưới lệ trôi dềnh
Kiếm đao sau loạn còn rơi rớt
Đất khách trong thời cũng bấp bênh
U uất lòng đau canh cánh mãi
Khoan thuyền tỏ rạng ánh bình minh.

Mai Thắng  
191007

--------------------- 

 Bài 5. LONG ĐẠI NHAM

5.1. Nguyên bản 


龍岱岩   
去年虎穴我曾窺, 
龍岱今觀石窟奇。 
鰲負出山山有洞, 
鯨遊塞海海為池。 
壼中日月天難志, 
世上英雄此一時。 
黎范風流嗟漸遠, 
青苔半蝕璧間詩。 
阮廌                                  

5.2. Phiên âm 

LONG ĐẠI NHAM
Khứ niên hổ huyệt ngã tằng khuy
Long Đại kim quan thạch quật kỳ
Ngao phụ xuất sơn, sơn hữu động
Kình du tắc hải, hải vi trì
Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão
Thế thượng anh hùng thử nhất thì
Lê Phạm phong lưu ta tiệm viễn
Thanh đài bán thực bích gian thi.
NGUYỄN TRÃI 

5.3. Dịch nghĩa 

Năm trước ta đã từng xem hang cọp
Nay lại đến xem động Long Đại, một động núi lạ
Con ngao đội núi lên thành động
Cá kình bơi lấp biển thành ao
Trong bầu nhật nguyệt trời khó già
Anh hùng trên đời thì chỉ là một thuở
Nếp sống phong lưu của hai họ Lê và Phạm than ôi cũng xa dần
Thơ trên vách đá cũng đã bị rêu xanh gấm nhậm rồi.

5.4. Dịch thơ

NÚI LONG ĐẠI

Hổ huyệt năm xưa đã ngó vào
Nay nhìn Long Đại dáng kỳ cao
Ngao nâng phiến tảng, non thành động
Kình quẫy khơi trùng, biển hóa ao
Nhật nguyệt trong bầu vơ lão vất
Anh hùng giữa thế được thời khao
Tài hoa Lê Phạm dần phai nhãng
Tựa nửa bài thơ vách đá bào.

Mai Thắng 
191008

Tà Áo Trắng

<D.658><Mái Trường> 



TÀ ÁO TRẮNG

Ngã mảng dương chiều vệt nắng lay
Trường tan tản ngợp nét duyên bày
Chia tà lả lướt vờn mây dõi
Xõa vạt vươn đùa đuổi bóng say
Ráng ửng chùm tia hồng giỡn mộng
Đường ngây mấy nẻo điệu qua ngày
Tìm trong ký vãng hồn thơ dại
Những mảnh vui hoà quyện gió bay!

Mai Thắng
(190221)

Dẫu Đây Sương Khói …

<D.657~Thơ Văn>



DẪU ĐÂY SƯƠNG KHÓI …

Câu khoán mượn ý thơ HGN (gốc Hàn Mặc Tử)
Dẫu đây sương khói mờ nhân ảnh
Anh biết tình xưa vẫn đậm đà

Dẫu bước thời gian lụy bóng tà
Đây chìm nổi sóng quyện trời xa
Sương nhòa cảm xúc trùm men lạ
Khói loãng phù vân bủa tượng ngà
Mờ ánh trăng thì xem nguyệt thả
Nhân dìm cõi mộng ảo hoàng hoa
Ảnh hong tóc gội hồng bên má
Anh biết tình xưa vẫn đậm đà.

Mai Thắng
210109

★ Bài xướng của Hoàng Giáng Ngọc

HƯƠNG TÌNH VẪN THẮM

Mượn ý thơ Hàn Mặc Tử
Dẫu rằng sương khói mờ nhân ảnh
Em biết tình anh vẫn đậm đà.

DẪU biết đôi mình ở rất xa
RẰNG mây sẽ đợi ánh trăng tà
SƯƠNG e ấp giữa khu vườn lạ
KHÓI tỏa tràn quanh đỉnh núi ngà
MỜ nét trang đài thu ngập lá
NHÂN tìm mộng ảo chốn phồn hoa
ẢNH lưu ký ức dầu muôn ngả
EM BIẾT TÌNH ANH VẪN ĐẬM ĐÀ.

HGN 30.10.19

Thơ Khuyên Bạn Thơ

<D.656><Giao Tiếp> 



THƠ KHUYÊN BẠN THƠ

Bị oải làng phây cũng khó rời
Cho dù nản lắm vẫn thèm chơi
Đừng bê nghiệp quả chen vào não
Chớ để buồng tim bận nhiễu lời
Chẳng dại khôn gì nuôi xẵng ớ
Không trùng trục quá thả rầu ơi
Vần thơ phiếm luận đều vui cả
Sẽ hiểu mần răng chán chuyện đời.

Mai Thắng
210108

★ Bài xướng của Hường Xưa

CHÁN … HẾT VUI

Làng phây đã hết Muội xin rời
Cũng tại văn xoàng chẳng dám chơi
Vụng ngữ quay cuồng do nản trí
Rầu tim cáu cẳn tại hoen lời
Thôi đành vứt khổ nhân tình hỡi
Bỏ đại chôn sầu ái nghĩa ơi
Gặp phải đường thi dường thấy bão
Làm ta mỏi mệt chán duyên đời

Hường Xưa 

10 tháng 1 2021

Vần Thơ Cuối Năm

<D.655~Thơ Xuân>



VẦN THƠ CUỐI NĂM
1.
Đông tàn ắt hẳn sẽ vào xuân
Hiển hiện tầng mây dãy suốt ngần
Giáng bủa sương mờ an dưỡng phận
Buông vèo lá khẽ cợt đùa chân
Mùa đang đọng giá treo từng buổi
Nguyệt cũng trèo hiên rảo mấy lần
Tĩnh tọa thương ngùi hoa nở cánh
Mưa phùn nhỏ hạt sánh phù vân
2.
Mưa phùn nhỏ hạt sánh phù vân
Khúc tiễn chiều đi cảnh hợp quần
Mượn sắc mai vàng trông vĩnh cửu
Se màu huệ trắng ngẫm gian truân
Điều nghiên ý chữ ghi thành mộng
Chải chuốt lời thơ giữ vẹn thần
Những điệu ca trù thương khắc khoải
Đông tàn ắt hẳn sẽ vào xuân.

Mai Thắng 
210106

★ Bài xướng (1) của Thầy Mai Lộc, (2) của Cao Mỵ Nhân

1. CHIỀU CUỐI NĂM

Thoi thóp chiều tà, nắng cuối năm
Làm ta xao xuyến biết bao lần.
Thì thầm tiếng gió vương cành lá
Hiu hắt con đường quạnh bước chân.
Đồi núi mịt mờ sương trắng xoá
Chân mây lãng đãng nguyệt trong ngần.
Buồn tênh thành phố tràn Co-vid
Đất khách xa vời bóng dáng Xuân.

Mailoc
12-31-2020

2. NGHẸN THƠ

Mắc nghẹn thơ sao bỗng lạc thần
Đề tài năm mới thật phân vân
Bâng quơ hoa nở không mầu Tết
Buồn bã tình lan chút sắc Xuân
Chẳng lẽ năm vần còn tử vận
Thực thì bảy chữ vẫn gian truân
Mùa chưa tươi thắm trên dòng nhớ
Chờ mãi quyên ca khúc hợp quần.

Utah 5-1-2021
CAO MỴ NHÂN

08 tháng 1 2021

C. Khúc Trì - Lý Thương Ẩn

<C.046><Dịch Hán thi>

KHÚC TRÌ - LÝ THƯƠNG ẨN (813-858)



★ Nguyên bản 

曲池                                 
日下繁香不自持         
月中流豔與誰期         
迎憂急鼓疏鐘斷         
分隔休燈滅燭時         
張蓋欲判江灩灩         
回頭更望柳絲絲         
從來此地黃昏散         
未信河梁是別離         
李商隱                             

★ Phiên âm 

KHÚC TRÌ
Nhật hạ phồn hương bất tự trì
Nguyệt trung lưu diễm dữ thuỳ kỳ
Nghinh ưu cấp cổ sơ chung đoạn
Phân cách hưu đăng diệt chúc thì
Trương cái dục phan giang liễm liễm
Hồi đầu cánh vọng liễu ty ty
Tòng lai thử địa hoàng hôn tán
Vị tín hà lương thị biệt ly..
LÝ THƯƠNG ẨN 

   Lý Thương Ẩn 李商隱 (813-858) tự Nghĩa Sơn 義山, hiệu Ngọc khê sinh 玉谿生, người Hà Nội, Hoài Châu (nay là phủ Hoài Khánh, tỉnh Hà Nam) xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Thuở thiếu thời giỏi văn thơ, nhưng đường hoan lộ không thành đạt, cuộc sống nhiều long đong khốn khổ cho đến cuối đời và mất năm 46 tuổi. 
   Lý Thương Ẩn cùng với Đỗ Mục được người đương thời gọi là “tiểu Lý – Đỗ (Lý Bạch – Đỗ Phủ). Ông để lại nhiều loại văn thơ và nổi tiếng nhất là những bài thơ Vô đề diễn tả tâm lý tình cảm nam nữ tự nhiên và sâu sắc. 

   * Khúc Trì là tên một cái hồ ở huyện Ninh Dương, tỉnh Sơn Đông.

★ Dịch nghĩa

Trong ngày mùi hương không tự lưu giữ được
Ánh trăng chiếu rọi vẽ đẹp theo kỳ hẹn với ai
Buồn ngấm sâu khi trống thúc mau, chuông lơi chậm
Thời chia cắt đến khi đèn tàn lụn, đuốc tắt rồi.
Giương lọng định đi thì mặt hồ dậy sóng,
Quay đầu nhìn lại thấy tơ liễu phất phơ.
Từ xưa nơi đất này vào những buổi chiều,
Chẳng tin rằng cầu sông này là nơi chia ly mãi.

★ Dịch thơ

HỒ KHÚC TRÌ

Hương ngày thoáng tản tự nhòa đi
Thoảng giữa màu trăng ước định kì
Trống giục chuông lơi buồn kéo đến
Đèn tàn đuốc lụn báo chia li
Giương dù rảo bước … hồ lay gợn
Ngoái cổ vờ trông … liễu với trì
Những buổi hoàng hôn in tiễn biệt
Tin cầu ắt chẳng sẽ hoài ghi.

Mai Thắng  
190902

Điểm Mộng Xuân Tình

<D.654~Thơ Xuân> 



ĐIỂM MỘNG XUÂN TÌNH

Điểm giữa sân vườn rộ trắng lê
Ngàn hoa tất bật đã quay về
Mai chờ tỉa đọt vươn tầm vóc
Huệ duỗi đâm chồi hút cửa quê
Dẫu thế gian cần vui bổng lộc
Thì con chữ thảo bức trăm bề
Như từng khắc khoải từ sâu thẫm
Cám cảnh xuân bày chuỗi lạch khê.

Mai Thắng – 210106

★ Bài xướng của Nhất Hùng

XUÂN NHỚ NHÀ

Vườn sau đang điểm trắng hoa lê
Báo hiệu mùa xuân lại trở về
Viễn xứ bâng khuâng niềm nhớ bạn
Tha hương xao xuyến nỗi thương quê
Mối lo non nước còn mờ mịt
Gánh nợ văn thơ vẫn bộn bề
Cứ muốn vượt ngàn thăm bến cũ
Cho dù cách trở mấy sơn khê.

Nhất Hùng

Xướng Họa Chào Xuân

<D.653~Thơ Xuân> 


XƯỚNG HỌA CHÀO XUÂN

Giao tình xướng họa chẳng cầu danh
Chúc những thời xuân hưởng sự lành
Bạn hữu đua mời khai giải trí
Thi đàn mở bút gọi đồng thanh
Còn đang khốn quẫn vì cơn dịch
Vẫn chọn hồn nhiên ở cấm thành
Cảm nhận niềm vui già thấm nghĩa
Câu vần khéo vẽ mảng màu xanh.

Mai Thắng –
210106

★ Bài xướng của Văn Thanh

MỪNG XUÂN MỚI

Gió mát mây trong khắp thị thành
Đó đây hoa nở, lá tươi xanh
Ngày Đông bỏ lại con sâu dịch
Năm Mới cầu mong mọi sự lành
Vạn vật giao hòa như nhất thể
Chim muông ríu rít tựa đồng thanh
Thi nhân khai bút MỪNG XUÂN MỚI
Xướng họa giao tình, lưu mãi danh

Thanh Trương

Mừng tuổi 89

<D.652~Mừng Sinh Nhật> 


Ảnh Đại sư huynh Văn Thanh và Đại sư tỉ

MỪNG TUỔI 89

(Đại sư huynh Văn Thanh)

Rồi đông sẽ Tết! ... kệ ta già
Một cõi dương trần lắm quỷ ma
Tháng vội năm vàng khôn bỏ lỡ
Tình suôn lão khỏe thoạt la cà
Còn ưa rảo mạng chăm nhìn ngắm
Đã thích quen hình kịp mở ra
Bát cửu dư nhiều yên tĩnh đợi
Mừng xuân cập đến đủ say mà!

Mai Thắng 
210104

★ Bài xướng của Văn Thanh

TẾT NHỨT CÁI GIÀ

Tết nhứt làm chi, tội cái già
Tuổi đà tám chín chửa ra ma
Nhà đòn dài tháng chờ ngày cuối
Quách cũ lâu ngày mục ván ra
Bóng nguyệt thi đàn ham quyến luyến
Chiều hôm quán cóc thích la cà
Thôi đành dan díu thời gian nữa
Số kiếp phù du cũng mặn mà…

Thanh Trương 

Tự Sướng Sinh Nhật

<D.651~Thơ Sinh Nhật>


Ảnh và bài xướng của nhà thơ Đặng Minh

SINH NHẬT VẦN “IÊU”

Người ơi đã đến tạm khoan khiều
Nhẫn nại an lòng hướng cảm kiêu
Hát vẳng trầm ngâm đàn trỗi điệu
Hò vang chững chạc gió xuôi chiều
Cho ngày mở mắt đầy hương giễu
Để bận thương thời khẽ tiếng khiêu
Tặng phẩm bao lời luôn vẫn thiếu
Vần thơ mượn gửi nói hơn nhiều.

Mai Thắng
210102

★ Bài xướng của Đặng Minh

TỰ SƯỚNG SINH NHẬT

Ktct

Đã lại thềm xuân dáng khổ nhiều
Ặm toàn thiểu não hết đường kiêu
Nhìn phương kết hữu đời mong hiểu
Gọi ngã gìn tâm kiếp thỏa chiều
Mẫn dạ thi nồng men phỉ chiếu
In hồn nhạc đẫm tửu mừng khiêu
Ngàn cơn bĩ cực qua rồi khiếu
Hãy để buồn vui tự đến khiều.

ĐM Đặng Minh 

Hồng Nhan Định Phận

<D.650><Cảm Xúc>



HỒNG NHAN ĐỊNH PHẬN

Trời khuya cánh vạc lẻ loi về
Lặng lẽ đêm trường thả bước lê
Ánh rọi mờ giăng đường bỏ ngõ
Đèn soi nhẹ tỏa bóng chen nề
Đan vần xướng họa hòa tâm ảnh
Lẫn sóng nhân hình dựa nẻo quê
Khoản đãi hồn thơ đầy ấm lạnh
Thuyền quyên đổi bến vững an bề.

Mai Thắng
210101

★ Bài xướng của Nguyệt Anh

KHỔ HỒNG NHAN

Như cánh vạc khuya lẻ bóng về
Giữa dòng đơn độc bước chân lê
Phòng loan quạnh quẽ càng thê thảm
Phận gái truân chuyên quá não nề
Trót nghiệp hồng nhan mang nặng gánh
Lỡ đời cô phụ sống xa quê
Muôn vàn hờn tủi sầu chưa bớt
Thục nữ thuyền quyên nhọc vạn bề.

NA Nguyệt Anh

Gửi Mộng Hồn Quê

<D.649~Tình Quê> 



GỬI MỘNG HỒN QUÊ

Miền quê đậm dấu trải bao đời
Những áng mây ngàn ảo diệu bơi
Mảnh ruộng thay màu nuôi dưỡng chất
Vườn cây chuyển hạt hóa ân trời
Âm thầm giữ ngọn triều năng tản
Lặng lẽ tuôn dòng nước chẳng ngơi
Sống cảnh hồn nhiên cùng kỹ thuật
Niềm tin hạnh phúc vững trông vời.

Mai Thắng - 201227

★ Bài xướng của Hoài Thu, SĐT 201226

GỞI HƯƠNG THEO GIÓ

Nhặt chút hương xưa gửi tặng đời
Gọi quà lưu niệm một thời thôi
Tơ lòng dìu dặt ngân nga trỗi
Duyên bút nồng nàn thong thả trôi
Muôn thuở sắt son tình đất nước
Bao phen thi vị áng mây trời
Non sông tươi đẹp bừng xuân sắc
Cánh gió hồn thơ bỗng tuyệt vời

Hoài Thu